VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/12/2019 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên mấy cuốn quý thư mới. Lần này hai cuốn ông giới thiệu và cho các thành viên xem tận mắt là hai cuốn cổ thư trên trăm năm bằng Pháp văn mang tựa đề là “Viễn Đông” (Extrême-Orient) và “Các cuộc phiêu lưu của Sidi khó tính” (Les aventures de Sidi Froissart). Đây là hai cuốn sách đã trên trăm tuổi nhưng còn mới tới 75% và được in ấn cực đep với mấy trăm minh họa bằng bút sắt rất ấn tượng. Cuốn đầu nói về các nước ở miền Viễn Đông trong đó có Đông Dương (Việt-Mên-Lào) và mấy nước khác, được trình bày một cách sơ lược, nhưng vẫn chứa đựng những tư liệu tốt cho những ai nghiên cứu lịch sử. Cuốn thứ nhì kể về những điều đã xảy ra, những tình huống, trong những chuyến đi của một thanh niên khó tính người Pháp ở các tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, trong thời gian quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ. Cả hai cuốn sách đều được in rất đẹp, với bìa cứng rất đẹp và ba cạnh đều mạ vàng.
Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mua hai cuốn này, và đã có mô tả cuốn Viễn Đông trong ngay Bản Tin của tháng này, nhưng vài ngày sau khi thấy Lm. Triết và thư viện của ngài là nơi hai cuốn sách đáng được giữ hơn nên đã nhường chúng lại coi như mua hộ Lm. Triết và thư viện. Sau khi dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu xong hai cuốn quý thư, anh Lương Văn Nhung (xin đính chính số trước ghi là Lương Vĩnh Nhung) lên đọc tặng các thành viên hai bài thơ. Tiếp lời anh Nhung, anh Phạm Vũ lên nói chuyện về thành phố Jérusalem và 9 triệu dân Do Thái. Sau anh Phạm Vũ, anh Nhựt Thanh lên nói về đề tài “Tận nhân lực tri Thiên mạng”. Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Tưởng đi… tàu suốt” vì mới trải qua một trận thập tử nhất sinh, sau đó anh cũng hát tặng các thành viên bài “Bánh xe lãng tử”. Tiếp lời anh Thanh Phong, chị Diệu lên kể về chuyện 36 năm trước Lm. Triết đã làm lễ thành hôn cho chị, và hát tặng các thành viên một bài hát Việt-Pháp. Sau chị Diệu, chị Hoàng Thị Vinh lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Chị Vinh ngâm thơ xong, Thùy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Câu đợi, câu chờ” một bài ca rất nổi tiếng ở miền Trung. Thúy Mai hát xong, Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Huế ơi, nhớ quá!” Sau Thúy Hương, đến lượt anh Quang Bỉnh lên đọc tặng các thành viên một bài thơ Xuân và ngâm tặng các thành viên một bài thơ thật dài về các loài Chim rừng trên đời. Tiếp lời anh Quang Bỉnh, Lệ Ngọc lên chúc các thành viên Noel Vui và ca tặng các thành viên bài Tình Ca của Phạm Duy. Sau Lệ Ngọc, anh Cần lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Anh Cần ngâm thơ xong, Kim Sơn lên kể chuyện mới đi Sa Pa về. Kim Sơn kể chuyện xong, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên bài “Lên thăm Tượng Chúa” do chính anh sáng tác ở Vũng Tàu, và một bài để kỷ niệm ngày Quân Đội 22 tháng 12. Sau anh Tâm, anh Hùng lên nói về sức khỏe và việc dùng chanh, xả… Anh Hùng nói xong, anh Thanh Châu lên hát tặng các thành viên bài “Cô Thắm về làng”. Cuối cùng thành viên Tuyết hát tặng các thành viên bài “Mùa Xuân đầu tiên” của Tuấn Khanh và buổi họp kết thúc thật vui vẻ lúc 11g20 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
VÀI DÒNG VỀ MỘT CUỐN SÁCH NHỎ TÉO NHƯNG LẠI DỄ THƯƠNG TUYỆT VỜI Trong hai tuần lễ phải ngồi duyệt lại từng cuốn trong gần 600 cuốn cổ thư của thế kỷ thứ 19, và đầu thế kỷ 20, đã đều hết bản quyền, tôi đã gặp cuốn sách tuyệt vời mà tôi rất vui khi giới thiệu với chư vị. Khi mới cầm trên tay, tôi không quan tâm gì lắm và chỉ nhìn để biết cuốn sách được in năm 1885 (134 năm trước), nhưng khi nhìn thấy tựa đề là “Bài giảng về luân lý và công dân giáo dục”, rồi lại đồng thời trông thấy hàng chữ “Sách tập đọc đầu đời” (Premier livre de lecture), tôi bỗng thấy xuất hiện trong đầu ý định muốn biết 134 năm trước, người Pháp dậy trẻ em của họ những gì, và thế là tôi để riêng cuốn sách ra, và ngay chiều hôm đó tôi đã bỏ ra hơn hai giờ đồng hồ để cưỡi ngựa xem hoa, và để thấy rằng người Pháp dạy dỗ các em thiếu nhi của họ hay thực là hay. Cuốn sách khổ 11x17 dày vỏn vẹn có 144 trang, mà chữ thì lại in rất to, và được minh họa bởi 84 hình vẽ bằng bút sắt khá đẹp. Vì tò mò, và muốn biết 134 năm trước người Pháp dạy các trẻ em của họ ra sao, nên cuốn sách trở nên hấp dẫn với tôi. Thế là tôi quan tâm tới tác giả và tìm hiểu một chút, thì, ôi tuyệt vời thay! G.Bruno chính là bút hiệu của nữ tác giả Augustine Fouillée (1833-1923), và bà lại chính là nữ tác giả của một cuốn sách cả đời ở bên tôi vì tôi có và giữ từ bé - nói từ bé vì bây giờ, ngay lúc này, cũng vẫn còn giữ - là cuốn Chuyến đi vòng quanh nước Pháp của hai cậu bé (Le tour de France par deux enfants). Đúng là phải có chút duyên, nên cuốn này tí nữa sẽ được tôi cho đi sum họp, và sẽ mãi cho nó nằm cạnh người anh của nó, là cuốn sách đã suốt đời ở bên tôi. Là người ít chịu thán phục ai, tôi phải thật sự công nhận là nữ tác giả này quá hay và giỏi, vì bà đã từng đoạt một giải Văn Học của Hàn Lâm Viện Pháp. Hơn nữa, qua cuốn Luân Lý và Công dân giáo dục tôi giới thiệu hôm nay, nữ tác giả này đã có công rất lớn với nước Pháp, khi, qua những mẩu đàm thoại, những lời diễn giảng, những thí dụ, những dẫn chứng, những câu hỏi và giải đáp, và nhất là những lời khuyên răn, nữ tác giả này đã rất thành công và có công lớn với Pháp Quốc của bà, khi qua tác phẩm này, bà đã cung cấp cho các thiếu nhi Pháp đủ các yếu tố để bước vào đời như một người tốt “đúng nghĩa” với chính bản thân chúng, gia đình chúng, cũng như với đồng bào của chúng và với nhân loại… Và tôi lại tự hứa, sẽ đọc lại cuốn sách thật kỹ khi rảnh rỗi. Trích hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI VŨ ANH TUẤN LỊCH SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO LỜI NÓI ĐẦU Một triết gia Á Đông đã nói cách hóm hỉnh: “Con người vui sống vì biết nhìn tới phía trước và trở thành khôn ngoan vì biết ngó lại phía sau. Quả vậy, con người sống vui vì biết hy vọng vào một tương lai tốt đẹp và trở nên khôn ngoan nhờ rút được kinh nghiệm của quá khứ. Mà quá khứ, phải chăng là lịch sử? Nếu một công dân tốt phải học hỏi về lịch sử của đất nước thì một Kitô hữu tốt cũng cần phải học hỏi về lịch sử của Giáo Hội. Học Lịch Sử Giáo Hội không chỉ để biết những bước thăng trầm của Giáo Hội trong hai mươi thế kỷ qua, mà còn để nhận ra bàn tay nhiệm mầu của Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Lý do là vì đối với người Kitô hữu, lịch sử không xảy ra cách ngẫu nhiên, nhưng diễn tiến trong một chương trình rộng lớn của Thiên Chúa. Nếu việc học Lịch Sử Giáo Hội là cần thiết thì việc soạn thảo một tài liệu vừa ngắn gọn, vừa súc tích lại vừa dễ đọc cũng không phải là dễ làm. Chính vì thế mà trong tập sách này, chúng tôi cố ý chọn một số nhân vật và một số biến cố tiêu biểu trong Lịch Sử Giáo Hội để làm mốc, rồi từ đó khai triển ra tới cả một thời đại lịch sử. Tập sách này mang tính đại chúng. Và chúng tôi chọn con số 28 bài là để cho các vị chủ chăn, nếu xét thấy là có lợi cho anh chị em giáo dân, có thể cho đọc các bài này trước Thánh Lễ mỗi ngày, trong vòng một tháng. Ngoài ra các Giáo Lý Viên có thể dùng để dạy trong các lớp Giáo Lý, và các giáo dân có trình độ cũng có thể dùng làm bước mở đầu cho những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Mặc dầu chúng tôi đã cố gắng hết sức, nhưng tập sách này chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được sự chỉ giáo của quý vị độc giả xa gần. Xin cám ơn Cha Gioakim Nguyễn Văn Có đã xem lại bản thảo. Các tác giả Bosco Nguyễn Văn Đình, Ofm Giuse Nguyễn Hữu Triết BÀI 1: HAI NGÀN NĂM LỊCH SỬ GIÁO HỘI (MỘT CÁI NHÌN CHUNG VỀ LỊCH SỬ GIÁO HỘI) Có nhiều cách phân chia lịch sử Giáo Hội. Ở đây xin chia thành bốn thời kỳ chính: · Thời kỳ Giáo Hội sống trong lòng Đế quốc La Mã (TK 1 đến TK 4). · Thời kỳ Giáo Hội sống giữa xã hội Trung Cổ phong kiến (TK 5 đến TK 16). · Thời kỳ Cải Cách của Ông Luthêrô và Phong Trào Cải Cách của Giáo Hội (TK 16). · Thời kỳ Cận Đại kể từ cuộc Cách Mạng Pháp (1789) cho tới nay. I. THỜI KỲ I: TRONG LÒNG ĐẾ QUỐC LA MÃ Thoát thai từ Do Thái giáo, Kitô giáo thoạt tiên cùng chia sẻ một niềm tin vào Thiên Chúa, cùng có chung một lý tưởng sống thánh thiện và cùng đặt niềm hy vọng vào một Đấng Cứu Thế. Tiếc một điều là Do Thái giáo không nhìn nhận Đức Giêsu thành Nazareth là Đấng Cứu Thế! Từ đó, Kitô giáo bắt đầu tách rời khỏi Do Thái giáo. Và Thánh Stêphanô là người đầu tiên đã phải chết để minh chứng rằng Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế. Sau này, Thánh Phaolô cũng gặp nhiều khó khăn về phía người Do Thái, là những kẻ đồng hương với Ngài. Tuy nhiên, những khó khăn ấy cũng không ngăn cản được Kitô giáo vượt ra khỏi đất nước Do Thái và lan rộng khắp miền Tiểu Á đến tận trung tâm văn hóa của Đế quốc La Mã là Kinh thành Rôma. Nơi đây, do ác cảm của vua chúa nhà Xêda và do sự khác biệt giữa giáo lý Kitô giáo và nền văn hóa Hy-La (Hy Lạp - La Mã), mà các Kitô hữu đầu tiên đã bị bách hại nặng nề, phải lẩn trốn trong các hang hầm toại đạo. Mãi cho đến năm 313 các cuộc bách hại mới chấm dứt. Hoàng đế Constantinô ra sắc chỉ cho phép được tự do giữ đạo và hành đạo. Ta thấy rõ là trong cái khó vẫn có cái hay. Sự cọ xát với nền văn minh Hy-La đã giúp các nhà Thần học trình bày Đức Tin Kitô giáo cách sâu sắc và có hệ thống hơn. Những người có công nhất trong lãnh vực tư tưởng vào thời kỳ này phải kể là các Thánh Ambrôsiô, Hiêrônimô, Augustinô và Chrysostômô. Mặt khác, chính trong lúc bị bách hại là lúc mà Kitô Giáo có khuynh hướng đi vào chiều sâu. Tiêu biểu nhất là đã có những người như Thánh Antôniô và Thánh Bênêdictô lui vào sống nơi sa mạc nóng cháy hay ẩn mình trong các tu viện hẻo lánh, một lòng thờ Chúa và xa lánh thế trần.
Phải sống chui nhủi dưới lòng đất trong những hang toại đạo. Con cá là dấu hiệu của Chúa Kitô giúp người Kitô hữu nhận ra nhau. II. THỜI KỲ II: GIỮA LÒNG XÃ HỘI TRUNG CỔ PHONG KIẾN Thời kỳ này được đánh dấu bằng sự suy thoái của Đế quốc La Mã và việc xâm nhập của các sắc dân mà người La Mã gọi chung là “man-di”. Sự tiếp xúc với các sắc dân này đã phong phú hóa Giáo Hội và tạo thêm cơ hội để Kitô giáo lan dần lên phía bắc. Thời kỳ này cũng được ghi dấu bằng sự xuất hiện của Hồi giáo ở phía nam vào cuối thế kỷ thứ 6 và Chính Thống Giáo tại phương Đông vào thế kỷ thứ 11. Các cuộc viễn chinh của Đạo Binh Thánh giá để chiếm lại Thánh Địa cũng là những biến cố quan trọng sau đó. Nói chung thì từ thế kỷ thứ 5 cho đến thế kỷ 16, Kitô giáo được xem như tôn giáo của các dân tộc thuộc Đế quốc La Mã. Địa vị của hàng giáo phẩm lớn đến độ đã có nhiều lạm dụng gây phẫn uất trong quần chúng. Nhiều cố gắng đã được thực hiện nhằm đem kiến thức và đạo đức vào trong đời sống Giáo Hội. Đây là thời kỳ xuất hiện các Đại học Công Giáo với những nhân vật lỗi lạc như Thánh Thomas Aquinô, Thánh Anbertô và các dòng tu lớn như Dòng Thánh Đôminicô và Thánh Phanxicô. Bên cạnh đó lại có nhiều bè rối nổi lên đe dọa Đức Tin, khiến Giáo Hội phải lập ra cái gọi là Tòa Án Tôn Giáo (Tôn giáo pháp đình) gây nhiều tai tiếng trong suốt 500 năm trời. III. THỜI KỲ III: THỜI KỲ CẢI CÁCH CỦA ÔNG LUTHÊRÔ VÀ PHONG TRÀO CẢI CÁCH CỦA GIÁO HỘI. Bước vào thế kỷ 14 và 15 có nhiều người chủ trương trở về với nền văn hóa Hy-La xưa, nhằm dùng đó như cái bàn đạp để phục hưng nền văn chương và nghệ thuật Trung Cổ đã đến lúc tàn lụi. Trong bầu không khí đó, một cuộc cải cách tôn giáo đang nhen nhúm lên trong lòng Giáo Hội. Đó là cuộc cải cách do ông Luthêrô đề xướng. Chính cuộc cải cách này đã đưa tới việc thành lập Giáo Hội Tin Lành và Giáo Hội Anh Giáo. Để giải quyết các mâu thuẫn, Công Đồng Trentô (1536-1549) đã được triệu tập để đề ra những đường hướng chỉ đạo về Thần Học, Giáo lý và kỷ luật trong Giáo Hội. Sau thời kỳ này những học giả như Thánh Carôlô Barômêô hay Philipphê Nerri là những Đấng rất quan tâm đến vấn đề đào tạo hàng giáo sĩ. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện các vị Thánh lớn như Inhaxiô, Phanxicô Salêsiô, Têrêxa Avila và những Thánh lo việc từ thiện, giáo dục và truyền giáo như Thánh Vinh-Sơn, Gioan de la Salle, Phanxicô Xaviê… IV. THỜI KỲ CẬN ĐẠI KỂ TỪ CUỘC CÁCH MẠNG PHÁP 1789 Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã gây ảnh hưởng không ít tới đời sống của Giáo Hội. Một quan niệm mới về các giai cấp trong xã hội, một tình huynh đệ đại đồng và việc đề cao quyền con người đã đưa vào trong Giáo Hội một quan niệm mới về quyền bính, một bầu không khí dân chủ và làm trỗi dậy nơi người giáo dân một ý thức rõ ràng về quyền lợi cũng như bổn phận phải chung xây Giáo Hội. Trong khi đó xã hội Tây phương có khuynh hướng ngày một xa rời Giáo Hội, vì thế Giáo Hội đã có những cố gắng vượt bậc nhằm lôi kéo người trí thức và giới thợ thuyền về với Giáo Hội. Nhiều thông điệp liên quan tới các vấn đề xã hội đã liên tục được công bố, đặc biệt là Thông Điệp “Rerum Novarum” (Những Vấn Đề Mới). Cuối cùng Công đồng Vaticanô II (1962-1965) đã được triệu tập hầu cập nhật hóa đời sống Đức Tin của các Kitô hữu và nhất là để thích nghi với con người và thời đại ngày nay. V. TA NGHĨ GÌ? Giáo hội là một tổ chức vừa có tính cách linh thánh vừa có tính cách trần thế. Những bước thăng trầm của Giáo Hội chẳng khác gì những bước thăng trầm trong đời sống một con người. Điều làm chúng ta vững tin là con thuyền của Giáo Hội, tuy đi giữa phong ba bão tố, vẫn không bị nhận chìm. Đây chắc chắn không phải do tài năng của con người mà là do quyền năng của Thiên Chúa! Bài đọc thêm GIÁO HỘI THỜI CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ (Năm 30-100) Năm | | 30/33 | - Chúa Giêsu chết và phục sinh tại Giêrusalem. | | - Lể Hiển Linh | 32/37 | - Người Do Thái bách hại các Kitô hữu | | - Thánh Stêphanô tử đạo | | - Những người thân Hy Lạp bị đuổi ra khỏi Giêrusalem. | | - Thành lập Giáo Hội tại Antiôkia và Damas. | 36/38 | - Thánh Phaolô cải đạo trên đường Damas | 42 | - Hoàng Đế Agrippa bách hại các Kitô hữu tại Palestina | 42/44 | - Tông Đồ Giacôbê Tiền, anh của Gioan, tử đạo. | 44/45-48 | - Chuyến đi truyền giáo đầu tiên của Thánh Phaolô: Síp, Tiểu Á | 44/40 | - Công Đồng Giêrusalem: Kitô hữu gốc ngoại giáo không buộc phải cắt bì như người Do Thái | 49/50-52 | - Chuyến đi truyền giáo thứ hai của Thánh Phaolô, Ngài sang tận Hy Lạp | 51/67 | - Thánh Phaolô viết các bức thư của Ngài | 53-58 | - Chuyến đi truyền giáo thứ ba của Thánh Phaolô. | 58 | - Thánh Phaolô bị cầm giữ tại Giêrusalem. | 59 | - Thánh Phaolô bị chuyển giao cho Roma | 62 | - Thánh Giacôbê, đứng đầu cộng đoàn Giêrusalem, tử đạo | | - Thánh Phaolô được phóng thích | 63 | - Thánh Phêrô bị bắt và tử đạo tại Roma | Giữa 64-67 | - Thánh Phaolô tử đạo tại Roma | 65-67 | - Xuất hiện Phúc Âm của Thánh Marcô, Luca, Matthêu | Giữa 66-100 | - Phúc Âm Gioan và Sách Tông Đồ Công Vụ của Thánh Luca | | - Sách Khải Huyền của Thánh Gioan | 95-100 (?) | - Gioan bị cầm tù trên đảo Pátmốt | 96-98 | - Thánh Gioan chết | Khoảng 100 | - Sách Giáo Lý đầu tiên – cuốn Didakhê | | (Trích Théo, tr. 301a) |
(còn tiếp) Bosco Nguyễn Văn Đình, Ofm Giuse Nguyễn Hữu Triết
TÁC HẠI CỦA Y NGỮ BẤT Y NGHĨA Đạo Phật có 4 điều dặn người tu phải theo đó mà hành gọi là TỨ Y, gồm: “Y TRÍ BẤT Y THỨC. Y PHÁP BẤT Y NHÂN. Y NGHĨA BẤT Y NGỮ và Y KINH LIỄU NGHĨA BẤT Y KINH VỊ LIỄU NGHĨA”. Nhưng không phải Tu Sĩ nào cũng hiểu, cũng thực hành theo. Do không biết là tác hại của việc không hiểu, không hành theo Tứ Y rất là to lớn, không chỉ hại cho bản thân người tu hành, vì không đạt kết quả, và vì họ lại tiếp tục truyền bá cái hiểu nửa vời đó cho thế hệ sau, không chỉ làm cho mọi người hiểu lầm, đánh giá sai về tôn chỉ của Đạo Phật, mà còn gây thiệt thòi cho cả xã hội rất nhiều. Trong khi đó, mục đích tu hành của Đạo Phật không chỉ đem lại lợi ích cho bản thân người tu qua những phương tiện mà Đạo Phật hướng dẫn, để họ Cải Ác, Hành Thiện. Nhờ đó, gia đình, người chung quanh, xã hội cũng được sống hạnh phúc, an vui. Ngoài ra, Đạo Phật còn dặn dò khi tu xong cho mình thì phải “mồi ngọn Vô Tận Đăng”, tức là hướng dẫn cho người khác, và phải đền TỨ ÂN. Xin phân tích về tác hại của Y NGỮ như sau: Quan trọng hơn hết là hiểu lầm về Phật, và Thành Phật. Mục đích của Đức Thích Ca khi rời bỏ vợ con, gia đình, là để Thoát cảnh đau khổ của Sinh, Lão, Bệnh, Tử đè nặng trên cái thân con người. Khi thành công, được Giải Thoát, hết Khổ thì gọi là Thành Phật. Do đó,“Thành Phật” không phải là thành một vị Thần Linh, ngồi trên Tòa Sen, có quyền “cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên thế giới” hay ban ân, giáng phúc cho tất cả mọi người. Việc “Cứu độ” đó chỉ diễn ra trong nội tâm của Ngài. Sau đó Ngài truyền lại bí quyết cho những ai muốn được Giải Thoát như Ngài. Phật, tức là sự Giải Thoát của mỗi người sẽ cứu cho chính họ, không thể cứu được cho ai khác, vì vậy, Đạo Phật là Đạo Tự Độ. Chính vì hiểu sai về “Phật” và “Thành Phật” mà nhiều thời qua, nhiều người đi tu đã Phát Tâm sai lầm. Đa phần Phát Tâm đi tu là vì nghe giảng về Phật nên ngưỡng mộ, muốn hy sinh cuộc đời để phụng sự cho Phật, hoặc “nương nhờ cửa Phật”, để được Phật che chở khi sống, lúc chết thì được về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Vì theo mô tả trong Kinh Kim Cang thì Tây Phương Cực Lạc đầy dẫy Bảy món quý giá, là vàng, bạc, xa cừ, lưu ly… là những món mà người đời ưa thích, tranh giành, chém giết nhau để có được. Nếu sau khi chết được về nước đó thì hạnh phúc biết bao! Một số nghe nói rằng đi Tu thì sẽ “Thành Phật”, và cũng nghĩ rằng “Thành Phật là thành một vị Thần Linh đầy quyền năng, được cả thế giới tôn thờ”, nên Xuất Gia đi tu hành là để mong có ngày Ngộ Đạo, Đắc Đạo sẽ có được danh uy đó vì không phân biệt thế nào là Phát Tâm cầu Danh uy, thế nào mới là Phát Tâm cầu Phật Đạo! Phát Tâm là cái đích nhắm mà tất cả công phu hành dụng đều hướng về đó. Vì vậy, chính những cái Phát Tâm sai lầm đã đưa người tu hoặc cả kiếp tu hành là chỉ biết cắm cúi Thờ Phật. Mục đích của họ học Pháp là để giảng thuyết, quảng bá cho nhiều người Quy Y theo Phật, càng đông càng tốt. Hoặc trở nên kiêu mạn khi Khai được một Công Án, hiểu được chút gì trong Đạo, thì tưởng mình đã Đắc Đạo, còn “cao hơn cả Phật, Tổ” như lời Ngài VÔ MÔN trong VÔ MÔN QUAN! Lỗi đó do những người chưa Chứng Đắc, chưa hiểu rõ, hiểu đúng về Đạo Phật mà lại đi truyền Đạo, rồi cứ thế, đời nọ truyền sang đời kia, cứ “Y KINH GIẢI NGHĨA”, mà không biết rằng Đạo Phật có câu “Y KINH GIẢI NGHĨA, TAM THẾ PHẬT OAN”, tức là nếu cứ Y CHỮ mà giải thích thì sẽ làm oan cho Ba Đời Phật! Biết rằng sau khi mình nhập diệt, nếu không có Đệ Tử thông thạo thay mặt để cầm nắm Tăng Chúng thì nội bộ có nguy cơ hỗn loạn, Giáo Pháp sẽ bị giảng sai, trước lúc nhập diệt, Phật đã Truyền Y Bát cho Đức Ca Diếp để thay Ngài cai quản Tăng Chúng và đảm đương việc truyền bá Đạo Pháp. Việc làm đó chứng tỏ là không phải bất cứ ai đã theo nghe Phật dạy đều có quyền rao giảng Đạo Phật. Chỉ người được Truyền Y Bát là người đã Chứng Đắc, đã Thấy Tánh, đã thâm nhập cả LÝ lẫn SỰ của Đạo. Nói cách khác là đã Thành Phật mới được quyền giảng Đạo. Tiếc thay, lời Phật dặn dò không được tuân giữ bao lâu. Sau khi Tổ Ca Diếp truyền lại cho Tổ A Nan. Tổ A Nan truyền lại cho Tổ Thứ Ba là Ngài Ưu Bà Cúc Đa. Khi Tổ Thứ Ba truyền cho Tổ Thứ Tư là Ngài Thương Na Hòa Tu, là một Tu Sĩ mới Xuất Gia có 3 năm và mới có 20 tuổi, thì phe Trưởng Lão bất bình tách ra lập nhóm riêng. Kể từ đó, Tăng Đoàn chia ra làm 2 Thừa. Phái Trưởng Lão được gọi là TIỂU THỪA, sau này đổi thành PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY. Nhóm tiếp tục theo sự điều hành của Tổ Thứ Tư gọi là ĐẠI CHÚNG BỘ hay ĐẠI THỪA. Cả hai bên cùng rao giảng Đạo Phật. Phía ĐẠI THỪA tiếp tục Truyền Y Bát được 33 vị. Đến đời Tổ thứ 33 là Lục Tổ Huệ Năng thì chuyện tranh chấp ngày càng quyết liệt hơn. Người giữ Y Bát có nguy cơ bị sát hại, nên Ngũ Tổ dặn Lục Tổ dấu Y Bát đi, không truyền nữa, vì thế, Lục Tổ trở thành Tổ cuối cùng. Lý do vì sao Tổ Huệ Năng vừa là Lục Tổ mà vừa là Tổ thứ 33, là vì tính theo thứ tự Chư Tổ từ phía Ấn Độ là Đức Ca Diếp, thì Ngài là Tổ thứ 33. Nhưng tính theo phía Trung Quốc do Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang truyền lại, thì Ngài là Tổ thứ 6. Từ khi không còn Y Bát làm tín hướng, thì mạnh ai nấy giảng Đạo Phật. Người nghe không biết gì thì làm sao phân biệt Chánh, Tà, đúng, sai? Người muốn tu học không còn biết nương vào đâu. Cứ thấy Thầy nào ở trong Chủa, tu lâu năm, có đạo đức, đông đệ tử thì theo học. Người hiểu biết thì thấy rằng nên dựa vào Chính Kinh, vì trong đó là những cột mốc, những lời dặn dò của các Tổ chính thức được Truyền Y Bát ghi chép lại. Nhưng dù đọc rồi thực hành theo từng câu, từng chữ, mà thiếu Tư Duy và không có người đi trước hướng dẫn thì cũng khó có thể thành công, vì trong Kinh, ngoài CHỮ còn có NGHĨA. Nhiều người đọc Chữ, nhưng không nắm được NGHĨA, nên cứ theo nguyên văn mà thực hiện, vì thế mà không thể mang lại kết quả, vì NGHĨA mới chính là điều người học Phật cần hiểu để thực hành cho đúng. Và thực tế cho thấy: Lẽ ra “Tu Phật là Tu Tâm”. Người tu Phật phải tu sửa Thân, Tâm mình, gọi là “Thân Giới, Tâm Huệ” để được kết quả là Giải Thoát, thì toàn bộ đã bị Y NGỮ, đưa hết ra ngoài mà làm. Ngày càng chú trọng đến hình thức, màu mè sắc tướng, không còn quay vô âm thầm tu sửa Thân Tâm như mục đích của Đạo Phật chân chính nữa. Đầu tiên là hiểu lầm về việc XUẤT GIA. Mọi người cứ tưởng Xuất Gia là rời bỏ nhà thế tục, bỏ cha mẹ, anh em, họ hàng, xa lánh cuộc đời để vô Chùa, thì mới có thể tu hành được. Kể từ khi vô Chùa thì họ được gọi là Tu Sĩ. Phải Cạo Tóc, Đắp Y, mang Bát. Phải giữ hàng mấy trăm Giới. Hình tướng lúc nào cũng phải trang nghiêm, đầy đủ Tứ oai nghi. Công năng hàng ngày là gõ mõ, Tụng Kinh, Ngồi Thiền, học một số Pháp, một số nghi thức. Thời gian sau là có quyền ra làm thầy, giảng dạy cho bá tánh. Họ giảng cho bá tánh về quyền năng, về đức Từ, Bi, Hỉ, Xả của Phật và tự xem mình là trung gian giữa Phật và Phật Tử. Khi người Phật Tử hoặc gia đình, con cái cần xin Phật điều gì, thì hương đăng trà quả mang đến nhờ các Sư chuyển lời cầu xin cho. Lúc có thân nhân qua đời thì mời các Sư đến để tụng Kinh Vãng Sanh. Họ tin rằng với đạo lực của Tu Sĩ và những bài tụng đó thì Phật A Di Đà và Thánh Chúng sẽ đến rước vong linh người chết “Vãng sinh Tây Phương Cực Lạc”! Trong khi đó, NGHĨA của Xuất Gia là RA KHỎI NHÀ LỬA TAM GIỚI. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển Kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc Tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là Đạo Tràng, các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, các đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân, các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn”. Trong đoạn kinh trích dẫn, chúng ta thấy, phần quan trọng là “Đúng như lời tu hành”, không có nhắc đến hình tướng, nơi ở, có gia đình hay không? Học cao hay ít học? Đạo Phật được mở ra là để “Độ” cho tất cả mọi người. Trong lời Thọ Ký, Phật dạy: “Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành”, đâu có phân biệt người được thành Phật đó có phải là Tu Sĩ hay cư sĩ? Già hay trẻ? Có gia đình hay độc thân? Ở trong Chùa hay ngoài Chùa? Chỉ cần “Y Giáo tu hành” thì đều đạt được kết quả “Thành Phật” như mục đích mà Đạo Phật đề ra. Bởi vì bất cứ ai, bất cứ hoàn cảnh nào đều có những sự ràng buộc, đau khổ, cũng cần Giải Thoát, và khi đã hành trì đúng phương pháp thì đều sẽ đạt kết quả cho mình, cần gì nhất định phải ở trong một môi trường nào? Hình tướng ra sao? Tiếp theo, nghĩa của CẠO TÓC là CẠO SẠCH PHIỀN NÃO. Nếu người tu không cạo sạch phiền não mà chỉ Cạo Tóc thì đâu có ích lợi gì cho việc tu hành? ĐẮP Y là PHỦ LÊN THÂN, TÂM MỘT MÀU THANH TỊNH, KHÔNG NHUỐM BỤI TRẦN, PHIỀN NÃO. Nếu người tu chỉ đơn thuần đắp Y lên người mà không tẩy rửa Thân, Tâm, tưởng như vậy là đã được thanh tịnh, thì Phật Ngôn đã không có câu: “Nếu chiếc áo Ca Sa có năng lực giải trừ Tham, Sân, Si, thì cha mẹ hoặc người thân chỉ cần khoác nó lên người đứa bé khi nó vừa chào đời là đã được toại nguyện”! CHÙA là nghĩa của THANH TỊNH ĐỊA. Do vậy, CẤT CHÙA là hướng vào Tâm của mình, LÀM CHO ĐẤT TÂM TRỞ NÊN THANH TỊNH. Vì thế, Tu theo Đạo Phật được gọi là TU TÂM. Người không lo tu sửa cái Tâm của mình thì cất bao nhiêu Chùa cũng đâu có làm cho họ đạt kết quả của Đạo? Nhưng nhiều Tu Sĩ không mong cầu chuyện thành đạo, chỉ ước một kiếp tu hành của mình “cất được một ngôi Chùa để đời”, là kể như hoàn thành ước nguyện, quên rằng chính ngôi Chùa được xây nơi Tâm, hình thành vị Phật Tại Tâm mới là mục đích của việc tu hành. PHẬT, NHƯ LAI, BỒ TÁT v.v… không phải là những vị THẦN LINH, tu hành Đắc Đạo, có thể “cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, có toàn quyền “cứu khổ ban vui” để cho bá tánh thắp hương, tôn thờ, cầu xin, nương tựa, mà chỉ có nghĩa là GIẢI THOÁT. Người tu hành Thành Phật là người đã thành tựu công việc Giải Thoát cho chính bản thân họ. Hoàn toàn không có quyền năng. Không thể cứu độ cho ai. Do từ xa xưa, ngôn ngữ chưa đủ để diễn tả những gì bên trong cái Tâm, Đức Thích Ca đã mượn hình ảnh tượng trưng để “nhân cách hóa” những điều cần phải làm, những tình trạng diễn ra trong nội tâm. Thí dụ như trong Tâm của mỗi chúng ta khi gặp những tình huống bất như ý thì đau khổ, buồn phiền, muốn đưa ra những hành động xấu, muốn hại ai hay trả thù ai đó, thì Ngài gọi đó là những Chúng Sinh. Ngay lúc đó, có những tư tưởng khác, cũng của chính ta, sáng suốt hơn, để tự an ủi, tự khuyên giải cho mình nên bình tĩnh hơn, đừng manh động... Nhờ đó, không đưa đến những hành vi mất kiểm soát. Tư tưởng sáng suốt xuất hiện để hóa giải những tư tưởng đen tối, Phật gọi đó là Quán Thế Âm Bồ Tát, vì lắng nghe tiếng kêu cứu của Chúng Sinh để tiếp ứng, cứu giúp nên cuối cùng hóa giải được những ý tưởng xấu kia. Nó chịu an ổn, ngưng không bạo động nữa. Khi ý tưởng xấu được hóa giải, trở nên an ổn, thì Đức Thích Ca gọi đó là MỘT CHÚNG SINH ĐÃ ĐƯỢC ĐỘ, ĐÃ ĐƯỢC GIẢI THOÁT HAY THÀNH PHẬT. Một ngày, hay một đời, mỗi người chúng ta có biết bao nhiêu lần Khởi lên, biết bao lần “Được Độ”? Cho nên gọi là “Muốn Thành Phật phải Diệt Độ vô lượng vô số Chúng Sinh” là như thế. Nhưng “Diệt Độ” mà không có ai bị “Diệt Độ”, vì Chúng Sinh đó chỉ là những tư tưởng trong Tâm của mỗi người mà thôi. Đó là ý nghĩa của ĐỘ SINH, ĐƯA CHÚNG SINH THÀNH PHẬT. Việc “đúc hình tạc TƯỢNG PHẬT”, Tổ Đạt Ma, TRONG SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT giải thích: Nói “Đúc hình tạc tượng”, tức đó là tất cả chúng sanh cầu Phật Đạo cần tu các Giác Hạnh phỏng theo chân dung diệu tướng của Như Lai, há đâu chỉ là việc đúc vàng tạc đồng tầm thường vậy thôi. Bởi vậy người cầu đạo Giải Thoát phải lấy Thân mình làm lò, lấy Pháp làm lửa, lấy Trí Huệ làm tay thợ khéo, lấy Ba Giới tu tịnh, Sáu BA LA MẬT làm khuôn phép, nấu chảy và rèn đúc chất CHÂN NHƯ PHẬT TÁNH ở trong Thân cho thâm nhập khắp tất cả hình thức Giới luật, y lời dạy đó mà làm, mỗi mỗi không hở sót, thì tự nhiên thành tựu hình tướng của chân dung. hình tướng đó đích thực là Pháp Thân Thường Trụ vi diệu cùng tột, há phải là pháp hữu vi hư đốn sao? Có nghĩa là người muốn Thành Phật thì phải bắt chước theo những Hạnh mà Phật đã làm để thực hiện cho bản thân mình. Phải lấy Thân mình làm lò, lấy Trí Huệ để hướng dẫn rồi dùng Giới Luật, tu tịnh Ba Giới, hành Lục Độ Ba La Mật và dồi mài cho chất Chân Như Phật Tánh tan chảy ra, thâm nhập thành Hình Tướng của Phật nơi mỗi người. Để bản thân người hành trì sẽ thành Phật. Thế nhưng, từ bao thời qua, Chùa chiền lại dùng xi măng, thạch cao, hoặc nấu vàng, đồng, bạc cho chảy rồi đổ thành khuôn có hình Phật, hay tạc lên gỗ hay đá bán quý, hình ảnh có đầy đủ các tướng tốt, rồi gọi đó là TƯỢNG PHẬT và thắp hương thờ cúng để cầu xin! PHẬT đã được định nghĩa trong Kinh, là “Vô tướng, do vô lượng công đức mà thành”. Tức là kết quả Giải Thoát mà người tu đạt được bằng những việc làm cụ thể với mọi người bên ngoài được mô tả bằng 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp. Tất cả chỉ là phương tiện mà Phật bày ra để con người vì ham những Tướng Đẹp mà giữ Giới, yêu thương, kính trọng ông bà cha mẹ, anh em. Kính thầy, yêu bạn, không tranh giành, lấn át mọi người, trái lại, giúp đỡ nhau để tất cả dều được có cuộc sống an vui cho đến hết kiếp. Thế nhưng, cũng do hiểu lầm Phật là Thần Linh, có quyền vạn năng, cứu khổ cứu nạn, nên những Tu Sĩ từ thời xa xưa cho đến thời nay, đã gom vàng, bạc, tiền của bá tánh cất lên những ngôi nhà có hình ảnh đặc trưng, hoành tráng, trang hoàng lộng lẫy, nguy nga, gọi là Chùa. Họ tin rằng càng dùng chất liệu quý chừng nào càng chứng tỏ lòng thành chừng đó, nên Miến Điện đã đúc tháp Chùa bằng cả mấy tấn vàng khối! Thái Lan, Campuchia thì đúc tượng bằng vàng, tạc Tượng Phật bằng vàng, bằng ngọc! Trung Quốc thì Tượng khổng lồ được tạc trên cả một quả núi, gần 100 năm mới hoàn tất. Nói chung, những nước mà Đạo Phật phát triển mạnh đều có những Tượng Phật quý giá hay ít ra cũng to lớn, đồ sộ, cho là để tôn vinh Phật! - Trung Quốc có tượng Phật Di Lặc Ngồi ở Tỉnh Tứ Xuyên có chiều cao 71m. Các ngón tay có độ dài 3m. - Thái Lan có 1 tượng Phật được chế tác bằng ngọc nguyên khối, được mặc y phục bằng vàng. 1 Tượng Phật Nằm ở Chùa Wat Pho Bangkok, dài 46m cao 15m. - Nhật Bản có Tượng Daibutsu Ngồi, cao 13m, nặng 93 tấn bằng đồng. Tượng Phật Di Đà ở Thành phố Ushiku cao 120m kể cả bệ 10m, đài sen 10m. - Sri Lanka có Tượng Phật Nằm Nghiêng chạm trên tảng đá granit dài 14m. - Myanmar có tượng Phật Nằm Nghiêng Monywa Buddhas có chiều dài 90m, riêng phần đầu cao 1m8, và Tượng Phật đứng cao 116m. - Đài Loan có Tượng Đại Phật Thiên Tân làm từ đồng nguyên chất đứng trên tòa sen cao 34m, và Tượng Phật Quang Sơn Amitabha cao 36m. - Ấn Độ có tượng Phật khổng lồ bằng đá nguyên khối cao 17m nặng hơn 320 tấn. - Về giá trị lớn nhất thì Chùa Shwedagon ở Myanmar có bảo tháp mạ vàng, trang trí bằng 5.448 viên kim cương, 2.317 viên Hồng Ngọc, trên đỉnh có viên kim cương 76 carats. (còn tiếp) TÂM NGUYỆN 12/2019
Phụ Bản I Kỷ niệm 231 năm Chiến thắng Ngọc Hồi - Ðống Ða (1789 - 2020) MÙA XUÂN NHỚ HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG VỚI CỜ ĐÀO CÓ MẶT TRỜI VÀNG Ở GIỮA
Quang Trung với sự nghiệp dựng nước Cách đây 231 năm, ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), dưới sự lãnh đạo của người anh hùng “áo vải, cờ đào” Quang Trung - Nguyễn Huệ, người dân đất Việt đã nhất tề đứng dậy, đập tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, làm nên chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Sau đó, vua Quang Trung tiếp tục sự nghiệp xây dựng đất nước với những chính sách kinh tế mới mẻ, táo bạo. Trong Chiếu Lên Ngôi, vua Quang Trung đã tuyên bố: “Nhân nghĩa, trung nghĩa là đạo lớn của người. Trẫm nay cùng dân đổi mới!”. Vì vậy, ngay sau chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu vang dội, nhà vua đã bắt tay vào công cuộc canh tân đất nước, với những cải cách toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục… Về kinh tế, vua Quang Trung cương quyết xóa bỏ chính sách “ức thương” và “bế quan tỏa cảng” đã tồn tại hàng thế kỷ. Đối với nông nghiệp, Quang Trung xác định: Có phục hồi nông nghiệp mới ổn định được trật tự xã hội, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác, nhất là kinh tế hàng hóa vốn đã tiêu điều do sự tàn phá của chiến tranh. Trong Chiếu Khuyến Nông, vua Quang Trung nói rõ: “Chính sự đạo vương cốt vun gốc, vén ngọn, làm cho dân yên ổn cấy cày, nhờ đó trong nước không có người lười biếng, ngoài đồng không có đất bỏ hoang. Trải qua buổi loạn ly binh lửa triền miên, lại thêm nạn đói kém, nhân dân lưu tán, ruộng đất bỏ hoang. Trẫm chịu mệnh trời giữ nghiệp lớn bốn bề trong lặng. Nay buổi đầu đặt định, chính sách khuyến khích sản xuất làm cho dân giàu phải được tiến hành lần lượt”. Đồng thời, nhằm hồi phục và phát triển kinh tế, vua Quang Trung đã đề ra một loạt cải cách về tiền tệ, thuế khóa, đinh điền bằng việc hủy bỏ toàn bộ loại tiền cũ và thay mới bằng các loại tiền Thái Đức, Quang Trung Thông Bảo… Về thuế khóa, nhà vua bãi bỏ việc nộp tiền thay cho việc sưu dịch còn gọi là “thuế tiền điệu”. Thuế ruộng đất công, tư đều được triều đình xem xét phân hạng theo mức sản xuất hàng năm và chia hạng nộp thuế bằng lúa, hoặc có thể bằng tiền tính theo thời giá. Đáng lưu ý, Quang Trung còn có quy định “Thập vật tiền” (nghĩa là tiền trả cho người đứng thu thuế) và “Khoán khố tiền” (tiền tồn kho) và mức thuế cụ thể. Ai thu vượt quá quy định sẽ bị khép tội tham nhũng. Ruộng được chia ra làm 3 hạng để đánh thuế, gồm: Nhất đẳng điền (150 bát thóc); nhị đẳng điền (80 bát thóc); tam đẳng điền (50 bát thóc)… Không chỉ có vậy, vua Quang Trung rất chú trọng phát triển nền kinh tế công thương nghiệp, mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài. Năm 1790, Quang Trung thương thuyết với nhà Thanh để mở một thương điếm tại Nam Ninh (Quảng Tây) mua bán hàng hóa giữa hai nước; đồng thời khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt. Vua Quang Trung xác định: Kinh tế thương nghiệp phải xây dựng trên nền tảng độc lập, tự cường để có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa nhằm không ngừng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phát triển kinh tế quốc gia. Ngay sau Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, nhà vua đã chủ động viết thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An đề nghị “mở cửa ải, thông chợ búa, khiến cho hàng hóa không ngưng đọng để làm lợi cho dân”. Kết quả, nhà Thanh đã cho mở cửa ải Thủy Khẩu, Bình Nhi, Du Thôn… cho thương nhân người Hoa sang buôn bán, lập ra nhiều phố xá gần biên giới, như: Kỳ Lừa, Mục Mã, Hoa Sơn và lập ra 2 cửa hiệu Thái Hòa, Phong Thịnh để buôn bán. Ngoài việc miễn thuế cho các thương nhân người Hoa, vua Quang Trung còn đề nghị lập nhà hàng ở phủ Nam Ninh (Quảng Tây) để thương nhân người Việt sang buôn bán. Chính nhờ chính sách mở cửa của Quang Trung, nhiều thuyền buôn Trung Quốc và cả phương Tây đã đến kinh đô Phú Xuân của Đại Việt để mua bán, trao đổi hàng hóa… Đáng tiếc, giữa lúc nền kinh tế của nước ta đang được tái thiết và từng bước hưng thịnh thì tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà. 231 năm đã trôi qua, song “hào khí Tây Sơn” và tinh thần của chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa vẫn mãi mãi bất diệt. Và, những hoài bão “canh tân, đổi mới” của Quang Trung vẫn sống mãi cùng non sông, đất nước. THĂNG LONG HÀNH KHÚC CA và GÒ ĐỐNG ĐA. Nhạc sĩ Văn Cao đã viết nhiều ca khúc về lịch sử Tiên Rồng nhằm để kích thích tinh thần yêu nước của thanh thiếu niên Việt Nam, xếp bút nghiên lên đường giành lại độc lập cho Tổ quốc thân yêu. Hai ca khúc này luôn được mọi người nhớ tới mỗi độ Xuân về. - Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng Trong khói sương chiều ám trên dòng sông. Nhị Hà còn kia, Nhị Hà còn đó Lũ quân chàng Tôn sập cầu trôi đầy sông Có chăng bao người bao lưu luyến tiếc… - Này phường này phố cũ, này đường về ô xưa Bóng xưa ngàn năm Hồ phai khi tàn mơ Thăng Long thành xưa, Thăng Long ngày nao cờ khoe sắc phấp phới Loa vang xa, chiêng thu không, tiếng bát ngát trong trống Thành Bao năm qua khắp chốn cũ cũng đã mất hết tinh anh. Thăng Long thành, Ôi Thăng Long , Ôi Thăng Long Ôi Thăng Long ngày nay Dân chí sống yên vui, chờ gió mới bay về Bao ánh sáng phương tây, từ khắp chốn bay về Ôi Thăng Long , Ổi Thăng Long Ôi Thăng Long ngày mai Xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng Gần xa hò hét: Thăng Long, Thăng Long, Thăng Long thành! Nhạc sĩ Văn Cao viết thật xúc động trong bài hát GÒ ĐỐNG ĐA: Từng đoàn dân chúng trên Đế đô tưng bừng đi Tìm về thăm chốn non nước thiêng trang hùng ghi Cố bước bước bước bước trên đường thơm gió mát Ta đi đi đi đi thăm Gò xưa chất thây. Ngày nay, Thủ đô Hà Nội tổ chức Lễ hội Đống Đa (thuộc quận Đống Đa) hàng năm diễn ra vào ngày mồng 5 Tết Nguyên Đán (5/1 âm lịch). Đây là Lễ hội chiến thắng, mừng công chiến tích trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, do hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải Tây Sơn lãnh đạo. Cuộc tế diễn ra ở đình Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang. Sau đám rước “Rồng lửa Thăng Long” là lễ dâng hương, lễ đọc văn. Lễ hội còn có nhiều trò vui, đua tài, đua trí trên sân bãi tại Gò Đống Đa lịch sử.
Ghi công từ hậu thế: - Vua Quang Trung được thờ tại chùa Bộc ở Hà Nội . Bức tượng Quang Trung trong chùa được tạc vào thời kỳ nhà Nguyễn đang truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn, tượng có dòng chữ "Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng". Hàng năm, vào ngày mồng 5 Tết âm lịch, tại quận Đống Đa - Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đánh tan quân Thanh của vua Quang Trung. Dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài Quang Trung được xây dựng tại khu vực này. - Đền thờ Quang Trung được xây dựng ở thành cổ Tam Điệp ngay trong thời nhà Nguyễn . Quảng trường, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân Ninh Bình xây dựng tại xã Quang Sơn, thị xã Tam Điệp . - Bảo Tàng Quang Trung có tượng đài Hoàng đế Quang Trung tại Quy Nhơn , Bình Định .
Tượng vua Quang Trung trước Bảo tàng Quang Trung Ngưòi hiến sắc Cờ cho vua Quang Trung: Biết tài thương gia Huyền Khê, Nguyễn Huệ tin dùng, đưa ông theo khi tiến quân đánh chiếm Phú Xuân rồi ra Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, cần có Đế hiệu, Kỳ hiệu riêng, nên họp quần thần để hỏi ý kiến mọi người. Trong lúc các bề tôi mỗi người một ý, vua còn cân nhắc, thì Huyền Khê đứng dậy nói: - Thưa Vương Thượng, ngài lên ngôi Hoàng đế dẫn quân đánh đuổi giặc Mãn Thanh là việc thuận ý trời, hợp lòng người. Nhưng ngài và Thái Đức Hoàng đế là anh em, cùng một cội, cùng dấy nghĩa trừ tàn khử bạo, kỳ hiệu của Trung ương Hoàng đế sắc đào thì kỳ hiệu của ta cũng nên dùng sắc đào và cần thêm hình nét ở giữa để làm sáng tỏ đại nghĩa của triều ta. Bắc Bình Vương cả cười: - Ý tiên sinh thật hợp với ý ta. Sắc đào thể hiện chí nguyện hy sinh xương máu cứu nước, cứu dân của ba quân. Trước, ta đã đem quân ra Bắc Hà phù Lê diệt Trịnh, nay ta lại đem quân ra quét sạch lũ hung đồ, nghĩa lớn sáng ngời như vầng nhật nguyệt. Vì vậy, đế hiệu ta là Quang Trung, kỳ hiệu phải là sắc đào có mặt trời vàng nằm giữa. Thế mới sáng tỏ chí nguyện của ta và muôn dân. Vương vừa dứt lời thì quần thần đã tung hô: Hoàng đế vạn tuế! Thế là rạng ngày 25 tháng 11 năm 1778, lá cờ triều đại Quang Trung tung bay trên kỳ đài núi Bân trong lễ tế trời lên ngôi của Quang Trung. Nhìn lá cờ đào bay, mưu sĩ Huyền Khê vững niềm tin vào trận đại thắng nay mai và mừng thầm ý mình hợp ý nhà vua. TÓM TẮT: - Chiến thắng Đống Đa vang dội của anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ làm cho nhà Thanh đã kiêng nể nước Đại Việt và từ đó, bản đồ của nhà Thanh không dám vẽ nước Đại Việt thuộc địa giới nước Trung Hoa. Nếu không, sau đó các nước Tây Phương xâm chiếm Trung Hoa, chiếu theo bản đồ nhà Thanh vẽ, Đại Việt sẽ mất tên trên bản đồ châu Á, chẳng hạn như 4 xứ Nội Mông, Mãn Châu, Tân Cương và Tây Tạng đã bị vẽ thuộc nhà Thanh (nên năm 1949, khi thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, 4 khu tự trị này được an ủi tượng trưng bằng 4 ngôi sao nhỏ xíu nằm cạnh ngôi sao lớn là Bắc Kinh). - Ngót 150 năm, nhà Nguyễn cố làm cho người người quên nhà Tây Sơn. Nhưng tiếng “Anh hùng áo vải”, “Anh hùng dân tộc” mãi mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc. Còn nhà Nguyễn thì sao? Có người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam. Đó là quên rằng chính nhà Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Đông Định Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao ‘dâu chìm bể nổi’ nhà Nguyễn còn để lại tiếng “Rước voi, cõng rắn”. Trăm năm bia đá thời mòn Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ. - Bài Ai Tư Vãn của Công chúa Ngọc Hân in đậm ấn tượng về một tình yêu. Nhưng bao nhiêu đời nay, người ta nhớ nhất câu: Mà nay áo vải cờ đào, Giúp dân dựng nước xiết bao công trình. “ÁO VẢI, CỜ ĐÀO” ĐÃ THÀNH BIỂU TƯỢNG NGỢI CA QUANG TRUNG, người con yêu của dân tộc, con người từ nhân dân mà ra rồi lại trở về với nhân dân. PHẠM VŨ (Tham khảo: Tài liệu trong Sách báo & Internet) CHỈ CÓ ÔNG MỚI CÓ THỂ NÓI VẬY THÚY TOÀN “Thời gian thấm thoắt thoi đưa Nó đi đi mãi có chờ đợi ai” Lại một câu hát ru, mẹ, chị tôi đưa võng ru tôi ngủ, chợt ở tuổi ngoại bát tuần tôi lại giật mình nhớ lại. Mình đã ở tuổi tám mươi hai trời cho rồi. Và bất giác nhìn lại quãng đời đi qua… tự mình hỏi mình đã làm được gì cho đời. Có để lại được chút gì cho người sau không? Kể ra thì cả quãng đời qua tôi cũng có phần chịu khó lao động, không đến nỗi ăn không ngồi rồi… Lần đầu tiên tôi nhớ ra có một chuyện mình đã làm được mà chưa xếp sắp lại. Mình đã có 60 năm có thơ dịch đăng báo chí. Phải rồi, bản dịch thơ của tôi xuất hiện trên báo Văn học số 67, ra ngày 6.XI.1959. Đến giờ là năm 2019, vậy đúng là 60 năm rồi. Một số những bài thơ dịch ấy đăng rải rác trên nhiều báo chí khác nhau. Nhiều bản dịch đã được tập hợp lại bổ sung ra thành sách. Sơ kết lại cũng đã có tới hơn mười tập mỏng, dày khác nhau, hàng trăm bài dịch khác được chọn đăng trong các tập tuyển bản dịch của nhiều người thực hiện. Còn không ít bản dịch chưa được tập hợp lại. Hai bản dịch thơ đầu tiên của tôi được đăng báo Văn học năm 1959: một bài dịch thơ của A.Tvardovski và bài thứ hai - thơ của Samuel Marshak. Samuel Marshak (1887-1964) nhà thơ được thừa nhận là bậc kinh điển văn học viết cho thiếu nhi, nhà thơ trữ tình xuất sắc, nhà soạn kịch, tác giả những bài thơ châm biếm và thơ trào phúng nổi tiếng, và là người có thể vào loại có uy tín nhất và được khẳng định nhất, hơn ai hết trong hàng các nhà văn hóa đương thời, đã hợp pháp hóa dịch thuật văn học có đầy đủ quyền hợp pháp được coi là một thể loại văn học độc lập, và công việc của người dịch được đánh giá như lao động sáng tác thơ ca” 1 Tôi lấy làm sung sướng là mở đầu thành tựu lao động của tôi, như một người dịch thơ Nga, cách đây đúng 60 năm, đã có một trong hai bản dịch từ thơ của S.Marshak được công bố trên báo Văn học số 67, ngày 6.XI.1959. Nhân đây tôi xin được phép giới thiệu thêm về tác giả S.Marshak bằng ba bài thơ, hai bài của chính S.Marshak nói về lao động dịch thơ, và một bài thơ của người khác nói về một quan niệm của chính ông về dịch thuật của mình. S.Marshak (1887-1964) (Dịch giả thơ Xônê của Sêchspia, R.Berns, truyện cổ tích nhiều dân tộc. Từng được trường đại học Tổng hợp Anh quốc phong hàm giáo sư, tiến sĩ danh dự). Tôi đã dịch Xônê của Sêchspia Mong thi hào, rời ngôi nhà xưa cổ, Cất tiếng nói trong ngôn từ lạ Ở thời điểm hôm nay, trên mảnh đất khác của hành tinh Chúng ta coi Người là người cộng sự, Người bảo vệ tự do, sự thật, hòa bình, Không phải ngẫu nhiên Sêchspia - cái tên khả ái, Theo tiếng Nga có nghĩa là khua giáo giải hòa. Đã ba trăm ba mươi ba lần Kể từ khi Người khuất bóng, Trái đất đã vượt qua chặng đường định sẵn, Bao ngai vàng sụp đổ, bao vua chúa chẳng còn… Mà câu thơ của Người trong bản dịch khiêm nhường Từng phụng sự và vẫn đang phụng sự tự do và sự thật ĐỀ TỪ TRÊN CUỐN SÁCH CÁC BẢN DỊCH GỬI NHÀ XUẤT BẢN Dù định giá cho câu thơ mình sáng tác Và câu thơ dịch có khác nhau Thì những câu dịch thơ của Sêchspia, Shevtrenko… Khó hơn nhiều những câu thơ ta sáng tác Hỡi anh bạn ! Thơ của mọi dân tộc Đâu chịu nổi bản dịch tẻ buồn, Hãy trả thêm vào dăm ba đồng rúp, Để người ta dịch sang cho vui hơn ! Những năm 1950 Iakov Kojlovshi (Nhà thơ - dịch giả Nga) CHỈ MỘT MÌNH MARSHAK MỚI CÓ THỂ NÓI VẬY Có một lần Marshak nói thế này, Mà chỉ một mình ông có thể nói vậy Tôi là một dịch giả ở nước Nga Và ngôn từ tôi chân quý Tôi không giống cỗ xe tắc-xi Bất kể vị khách nào xe cũng chở. THÚY TOÀN dịch
1 S.Ia.Marshak và trường phái của ông, bài viết của Lev Ghirzburg trong sách TRÊN DÒNG CHỮ của bản dịch. NXB nước Nga Xô Viết, M.1981, tr.105 Cuộc xử đền ân oán của Kiều theo một tuồng Nôm Nam Bộ (1841) Trong một lần trao đổi tài liệu Nôm với một du sinh TS ở Đài Loan tôi có được bản Nôm, dạng PDF nguyên quyển Tuồng Kiều, bản viết tay 1941. Tuồng độ 140 trang chữ viết đẹp và bay bướm. Nôm có thể nói là thuần túy Miền Nam với những chữ dùng chỉ cần âm, không cần nghĩa. Rất khó đọc chính xác đối với người chuyên môn nghiên cứu Nôm Bắc. Tôi bắt đầu đọc liền từ đầu đến cuối trong tháng 12/2019 nầy. Thấy một đoạn dài ở hồi 3 rất hay cần được giới thiệu liền. Đó là khúc Kiều báo ân báo oán. Khúc nầy bắt đầu từ: Lời truyền thị - kiểu truyền thị của Tôn Thọ Tường - của Kiều với quân sĩ cũng như dân chúng đặc biệt là những lời biện minh, và thái độ của những ai dính dáng nhiều đến cuộc đời Kiều. Chỗ nầy ngoài ý nghĩa nội dung là xử án - phần văn chương cũng như ở nhiều chỗ khác, có ưu điểm là đưa ra được những cách nói, những câu tục ngữ, thành ngữ Nam Kỳ rặt. Phần khác, những chỗ cần đối tác giả hiểu lộng tài mình bằng cách sử dụng chữ đồng âm nhưng khác nghĩa hay ho một cách khó ngờ. Đặc biệt thái độ của Thúc Sinh và lời biện hộ rất hay của Hoạn Thư càng đọc lại nhiều lần càng thấy thích thú. Mở đầu với Thệ Súy Văn, tôi coi như Lời Truyền Thị: Tượng mắng: Phước lành, họa dữ, Lời ở cũng công minh, Lẽ thường oán trả ơn đền, Phép dám đâu tư vị. Thiếp nay Vương thị, Tên gọi Thúy Kiều, Bán mình chuộc lấy cơn nghèo. Đền ơn sanh dục. Trở mặt mua nhằm lòng độc, Gặp bước lưu ly. Đường Vô Tích, nẻo Lâm Truy, Ong rời bướm rã, Kẻ tham tàn người gian trá Lửa nóng nước sâu Kiếp đọa đày người đã đáo đầu, Duyên gặp gỡ người cho đoạn thủ. Thiếp nay: Trộm mượn Đại vương uy vũ, Đặng đền tiện thiếp ân thù. Tướng sĩ ngươi: Đội trời đạp đất làm người, Ghét thương phải biết, Vực nước phò vua thủ tiết. Tha giết đừng sai, Một tiếng tỏ bày, Ba quân nghe hết. Ý Thúy Kiều nằm ở chỗ phải biết thương biết ghét cho đúng. Từ căn bản đấy việc giết tha không sai bởi vì đó là làm đúng công tâm. Tiếp theo lời truyền thị là chuyện xử án. Bị cáo không cần nghe kể tội. Đứng trước quan tòa họ chỉ cần biện bạch tại sao mình đã làm như thế như thế là đủ. Thúc Sinh là bị cáo đầu tiên. Thiệt ra Kiều đã kết tội anh chàng nầy nhu nhược, sợ vợ bậc nhứt trên đời ngay từ lúc mình bị HoạnThư hành hạ thể xác và tinh thần những lần dâng rượu cho vợ chồng y thị. Bây giờ Kiều nói lại lần nữa: Sợ vợ lắm nên chàng thúc thủ, Trả chồng cho (ai) thiếp phải cất mình… Thật ra đây là anh chàng giở Nho sĩ, giở thương buôn. Ham vui sướng nhưng sợ trách nhiệm, nhứt là sợ chết. Hãy coi thái độ của Thúc Sinh trước người vợ bé ngày xưa bây giờ là bà tướng: Mồ hôi tuôn ướt áo, Con mắt nhắm lộn thinh. Mừng cho ai sợ lỗi tới mình… Tuy vậy, vì là tình tri kỷ, có công khó chuộc cho Kiều hoàn lương, cũng biết đau lòng khi thấy phận liễu bồ bị hành hạ nên tội sợ vợ lớn bỏ xuôi vợ bé chềnh chòng được tha và còn được trả ơn một số tiền. Trong cách nói của Kiều ta thấy lờ mờ những lời phân bua tình tứ: Miệng cả chào chàng Thúc, Mắt xem hãn nàng Kiều. Bởi vì ai chẳng vẹn chỉ điều, Há tại thiếp vội lơi tơ đỏ!... …Bấy nhiêu ngày cũng nặng vì tình, Chừng ấy của gọi là lấy thảo! Hú hồn! Thúc Sinh ra đi mà không biết chắc là mình còn sống! Giác Duyên thì là chuyện không gì lớn. Người thi ơn nho nhỏ trong đời Kiều không thiếu. Họ Chung trong nha sở ở huyện. Cô kỹ nữ già khuyên người con gái lạc động yêu nên tùy thời hơn là cứng đầu chịu đòn đến chết. Ơn nhỏ, biết ơn hay quên cũng là bình thường trong đời người, huống chi đời Kiều quá nhiều biến động. Kiều nhớ ơn Giác Duyên vì nàng là người tình nghĩa. Cúng dường vàng bạc bậc tu hành Kiều nói rất hay: Dùng cho việc đèn nhang, chay lạt: Vội mừng sư trưởng, Thỉnh nhập hoa diên. Khi lỡ bước tới ở am thiền, Cơn ẩn mặt gởi qua nhà bạc. Cơm Phiếu mẫu một ngày còn tạc, Vàng Vương tôn ngàn lượng dễ đền. Vàng ngàn thoi giúp việc nhang đèn, Gấm trăm quyển đền khi dưa muối. Hoạn Thư là chuyện đặc biệt. Án chết nắm chắc trong tay mà nhờ lẻo miệng được thay bằng án mấy chục roi đòn, được coi là nhẹ. Lời đối đáp giữa đôi bên đáng kể về mặt tình, lý. Bắt đầu là giọng có gì đó đay nghiến người dưới cơ mình lúc nầy nguyên trước đã hành xử quyền chủ nhơn hơi quá đáng: Chào Hoạn gia ái nữ, Biết tỉ tấc Hoa Nô là ta đây hay không? Mưu sâu thì họa cũng sâu, Miệng tốt mà lòng không tốt. Đừng cậy thuở ba bà chấp một. Cũng có khi hai chín chống nhau. Lòn mái nên phải cúi đầu, Răn cả chợ làm cho biết mặt. Lời nói nhẹ nhàng nhưng có tính buộc tội trước khi nhắc đến thành ngữ mưu sâu thì họa cũng sâu, miệng tốt mà lòng không tốt, kiểu khẩu Phật tâm xà, ỷ tài ỷ tận, và nhứt là câu cuối nghe như sắt máu: Răn cả chợ làm cho biết mặt. Hoạn Thư cũng không phải tay vừa. Y thị đã viện dẫn nhiều điều đáng cho ta suy ngẫm: Trước nhứt cô ta gom Thúy Kiều về phe với mình: Đàn bà. Mà đàn bà thì ‘sở hữu’ mặc dầu không muốn: cái tật khó chừa: Ghen tương cũng bụng đàn bà, Độc hiểm chi lòng con gái. Rồi lại thêm bằng những điều mà ả coi như chân lý: Chồng mình mấy kẻ chịu chồng chung, Vợ lớn nào ai thương vợ bé. Những chữ coi ra không quan trọng nhưng có giá trị giúp Hoạn Thư khỏi chết là mấy kẻ, nào ai… chỉ rằng mình cũng như bao nhiêu người khác thôi, ở trong cái luật nguyên thủy của tạo hóa rồi, không làm khác hơn được. Biện hộ rồi thì họ Hoạn nói rằng mình đã thi ơn lớn với Kiều: 1. Đối xử rất phải đạo khi cho ở Quan Âm Các, ngụ ý rằng mình có thể hành hạ thêm nữa nhưng đã để cho yên: Khi ở gác để cho tử tế. 2. Không cho người theo bắt khi nàng ‘cầm nhầm’ chuông vàng khánh bạc lúc trốn ra đi. Hoạn Thư khôn ngoan tuyệt cùng khi dùng những chữ chỉ người trong cuộc mới hiểu cái xấu xa, cái trật sách của mình. Chữ ‘ra đường’ được dùng thay vì ‘trốn chạy’ trong đêm tối. Chữ ‘nào có kiếm tìm’, ngụ ý tôi đã tha đã bao dung nàng khi cố tình làm lơ chẳng cho người theo bắt lại. Nếu tôi xấu thì đâu đã bỏ qua chuyện đó: Lúc ra đường nào có kiếm tìm. Lòng hại đâu đi để im lìm… 3. Lý do làm cho Kiều mềm lòng tha chết cho họ Hoạn là câu nói rất tình cảm: làm chuyện nầy nọ của tôi với bà chẳng qua là ‘buộc lòng thôi’, làm thì cũng nhẹ tay, biết bà chịu đựng được, chớ lòng tôi đâu có hiểm sâu mà kiếm chuyện vô cớ: Cực chẳng đã phải rung cây nhát khỉ, Có đâu điều vạch lá tìm sâu! Với lý luận rõ ràng, với lời kể công, với cách nói không làm người đối diện mất mặt mà còn cảm thấy thương hại của Hoạn Thư, ai trong trường hợp Kiều cũng mềm lòng thôi. Mềm lòng nhưng nghĩ lại cũng ức. Chưa gặp mặt thì muốn băm dầm cho nát thây, nghe nó nói thì không đành đoạn. Mình cũng đàn bà như nó mà! Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Và Kiều thở dài, buông con dao xuống, cầm cây roi lên. Đánh mấy chục roi, trả thù vặt ngày xưa hún hiếp. Kiều thú nhận mình thua Hoạn Thư chỗ nầy. Họ Hoạn nói hay quá, chí lý quá, cảm động quá. Khôn quỷ rất ngoan cái miệng, Nói ma cũng phải lỗ tai. Nhưng mà nàng đã hành hạ tôi tới nỗi tôi bị trầm cảm, tới chán đời, tới chịu nổi sự cô độc cả năm trong các. Thôi thì giải pháp trung dung vì không có cách khác. Tha thì tức, mà hành hình thì mang tiếng xấu: Tha ra thì cũng may đời, Làm nữa lại mang hẹp lượng. Và Kiều đã phạt roi họ Hoạn, phạt nhưng cho ả tồn sinh. Các tội phạm khác thì chẳng có gì đáng nói ngoài chuyện đỗ văn thừa. Tôi bị ham tiền, tôi bị người ta cầm cốt… Tại và tại bởi mồi ngon hiện ra trước mặt… Mã Giám Sinh trước đây ngon lành bao nhiêu giờ trước mặt quan tòa tỏ ra hèn hạ bấy nhiêu: Anh ta than thở để may ra kiếm được chút thương hại làm vốn: Quỳ đà sụm cẳng, Cúi đã khòm lưng. Tội tôi giết chẳng ưng, Giết tôi thời cũng uổng . Đổ vấy tội cho người khác, lập lờ chẳng nhắc tới tội mình đã gian dối trong mục tiêu mua bán, đã hưởng nước nhứt phũ phàng, đã trấn nàng vô miệng rắn, hùm: Tại mụ thấy tiền thời muốn, Khiến tôi đem bạc đi mua. Tôi có biết chi mô, Xin bắt người cầm cốt. Tú Bà nói mình làm lỗi vì ham tiền, bỏ qua cái chuyện hành hạ, bày mưu để đẩy Kiều vô vùng nhớp nhúa. Chuyện quá rõ ràng, không thể đổ cho ai ngoài thằng Tiền. Đầy mình mọc ốc. Khắp mặt đổ chàm. Xưa kia thấy lợi thì ham, Nay phải cắn răng mà chịu! Sở Khanh thì hèn hạ trước cái chết sắp đến. Run en phát rét và đổ tội cho Tú Bà bày mưu thiết kế. Sở Khanh quên rằng mình đã dùng giọng kèn tiến quyến dụ Kiều để nàng phải bị lăn thân vô vũng bùn nhớp nhúa: Nghĩ chết ruột gan thắt thẻo, Sợ đòn mặt mũi xụi lơ. Vì Tú Bà xui giục ngày xưa, Tôi chẳng dám lăng nhăng chuyện ấy. Nhìn lại câu nói của họ Sở khi bỏ lại Kiều để nàng bị bắt mới thấy cái đểu của Sở Khanh. Khuyển Ưng thì cũng một đảng cậy mạnh hiếp yếu. Cậy đông hiếp người cô đơn. Làm xấu vì tiền nhưng khi thất thế thì đổ thừa nầy nọ. Một đảng chuyên làm cho người ta chết nhưng khi mình đối diện với cái chết thì run en lập cập: Ngày xưa tôi làm quái, Ấy tại chủ sai tôi, Tôi khác thể thiên lôi, Chỉ đâu thời đánh đó! Bạc Bà thì cũng thế. Một phường giả bộ ngây thơ. Em vô tội, tại thằng nầy thằng kia. Nhớ lại gần đây có ‘ông tòa’, xử tử hình người vô tội rồi phủi tay nhắn với mẹ người tử tội - là bạn học với mình - đừng trách tui, hãy trách người biểu tôi xử như vậy. Nào phải tôi mắc mỏ, Tại thằng Hạnh làm nhăn, Gã cho tưởng để làm ăn, Tham lắm đem đi cầm cố! Bạc Hạnh ! Như cái tên Tiền định, tên ầy đem vợ bán vô động lấy tiền xài. Hắn quên câu thiệu của giới giang hồ: Không ai lấy vợ cho đi làm đĩ. Bán vợ kiếm chút tiền, vợ có thế nào thì cũng mặc. Đó là bợm hết xài, lương tâm không bằng cái giẻ rách. Vậy mà cũng mở miệng đổ lỗi cho người đã làm ơn cho mình: Xưa tưởng đà khỏi lỗ, Nay nói thiệt không lời. Tại cô trước đem mồi , Làm tôi nay mắc bẫy . Nói chung, trong tất cả trường hợp đổ thừa nầy nọ, chẳng qua vì tham tiền mà hành động bất nhân. Tôi phạm khi bào chữa bỏ qua lỗi chánh của mình, chỉ nhắc đến lỗi nhỏ: tui dại khờ… Ôi, đời trước cũng thế a! Bản Nôm cho thấy tác giả viết rất đạt. Tuy xuất phát từ truyện Kiều, nhưng thỉnh thoảng có đoạn đọc lại - dầu là khó đọc khó hiểu như tuồng hát bội lại viết bằng chữ Nôm chưa ai giới thiệu ra chữ Quốc ngữ dầu là chỉ một vài đoạn ngăn ngắn - vẫn tạo được sự rung cảm nhứt là về mặt trí tuệ như đoạn nầy. Tác phẩm Miền Nam còn trong bóng tối của thời gian và hoàn cảnh rất cần những khám phá để đem lại giá trị văn hóa của miền đất mới chỉ vừa được chừng 4, 5 thế kỷ, còn rất trẻ so với các vùng khác. Nguyễn Văn Sâm (Victorville, CA, 12,24,19) NGUỒN GỐC MÓN PHỞ Trong Tự điển tiếng Việt - Bồ đào Nha - La tinh của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 không có từ “Phở”. Trong Tự điển Huỳnh Tịnh Của (biên soạn năm 1895) và Tự điển Genibrel (biên soạn 1898) cũng không có từ Phở. Danh từ Phở được chính thức ấn hành lần đầu trong cuốn Việt Nam tự điển (1930) do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo và giảng nghĩa: “Món ăn nấu bằng bánh bột gạo thái nhỏ với nước dùng bằng thịt bò hầm”. Nhà Văn Nguyễn Công Hoan từng viết: “Năm 1913… tôi trọ số 8 Hàng Hài… thỉnh thoảng, được ăn phở (hàng Phở gánh rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu, 5 xu)”. Phở rong bắt đầu thịnh hành nên bị chính quyền đánh thuế: “…họ phải mua hai hào tem thuế mỗi ngày. Như vậy có thể xem Phở xuất hiện khoảng giữa những năm 1900 đến 1913. Người Việt ngày xưa 99% là nông dân, họ coi Bò là loài gia súc thân thương và hữu ích (sức kéo) nên không ăn thịt Bò! vì thế nói quê hương Phở Bò ở Nam Định miền Bắc là không hợp lý. Chuyện là: Năm 1910, nhiều thanh niên Việt Nam cả miền Bắc lẫn miền Nam đi lính cho Pháp. Họ phải sang mẫu quốc để phục vụ một thời gian, trong số đó có một người từng làm phụ bếp cho Toàn quyền Sài Gòn tên Huỳnh. Đơn vị Ông Huỳnh đóng quân ở Marseille và Ông được giữ chức Bếp trưởng của binh đoàn toàn lính người An Nam. Sáng nào Ông Huỳnh cũng ra lệnh đốt bếp lò thật sớm bằng cách hô to : “Feu! Feu!” có nghĩa là nổi lửa lên để nấu súp thịt bò cho binh sĩ ăn điểm tâm với bánh mì khô. Thấy binh sĩ người Việt bỏ ăn sáng hơi nhiều Ông Huỳnh bèn nghĩ ra một món mới, hy vọng anh em binh sĩ An Nam sẽ cảm thấy dễ nuốt hơn, Sau khi được các “Xếp Tây” cho phép, Ông bèn lấy nước Súp bò của Tây... cho hầm chung với quế, hồi, gừng,... Riêng “bánh tài phảnh” mua của người Tàu bán ở Khu Chinois rồi Ông Huỳnh nêm thêm nước mắm vào Soupe cùng với hành... ngò rí... hành tây... cho hợp khẩu vị Việt Nam. Tuyệt vời thay, Ở xứ lạ quê người, buổi sáng trời lạnh như cắt da, mà lại được ăn một bát súp “hù tíu bò” nóng hổi ngào ngạt đậm mùi quê hương thay vì ăn bánh mì Tây quá ư nhạt nhẽo! Binh sĩ An Nam ủng hộ Chef Huỳnh hết mình... Nấu bao nhiêu cũng hết! Các Sĩ quan Pháp thấy vậy đòi ăn thử, ai cũng tấm tắc khen ngon rồi thắc mắc: “Tên món này là món gì mà sáng nào Monsieur Huỳnh cũng ra lệnh Feu Feu vậy?” Không chần chừ Ông Huỳnh trả lời: Thưa Xếp tên nó là Phở (Feu) đấy! PHỞ ra đời năm ấy - năm 1910...được Tây lẫn Ta yêu thích và chết tên “Feu” từ đó... Khi muốn ăn, Sĩ quan Tây chỉ cần nói “Feu Feu” là có tô phở bò hầm kiểu An Nam nóng hổi khói bốc nghi ngút... theo gió, thơm lừng cả doanh trại. Nhiều binh lính An Nam nhà ở Hà Nội sau khi giải ngũ về đã lấy Phở gánh với tiếng rao: Feu... ớ… làm kế sinh nhai, thực khách là lính Tây và kiều dân Pháp. Dân Hà Nội cũng ăn thử và “mê tít” món Feu từ đó! Ở Đà Lạt năm 1930 có phở Gare xe lửa là tiệm Phở Bò đầu tiên của Đà Lạt do con Ông Huỳnh (Chef) làm chủ. Chữ Tô Xe lửa (Tô lớn) từ đây mà ra. Phở Gare Đà Lạt sau 1960 dời về Phú Nhuận Sài Gòn lấy tên là Phở Bắc Huỳnh. - Ở Sài Gòn trước năm 1940 có tiệm Phở Turc là tiệm Phở đầu tiên. Chủ tiệm cũng là dân đi lính Tây giải ngũ về. Ông này nói tiếng Pháp giỏi nên có nhiều khách Tây đến ăn... Chú thích: Kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã có nhiều tranh cãi về nguồn gốc ra đời của Phở. Tuy vẫn còn bất đồng về nơi xuất xứ thực sự hay thời điểm ra đời nhưng hầu hết cùng chung quan điểm là Phở được khai sinh trong thời Pháp thuộc, ở giai đoạn người Pháp bắt đầu đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở Việt Nam. Có thể xem Phở là một trong những ví dụ đặc trưng cho khái niệm Bricolage (lai ghép) mà các nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực dùng để chỉ món ăn thiên hướng lai ghép (kết hợp, biến tấu từ nhiều nguồn thức ăn ngoại lai) hơn là tự thân sáng tạo. Hiện nay Phở đã theo chân cộng đồng người Việt có mặt ở nhiều nước trên thế giới. VÕ VĂN CÔN - LỆ NGỌC st. SƠN MÀI MỘT NGHỆ THUẬT TUYỆT VỜI TRẦN LÊ VĂN Sơn mài là một nghề thủ công lại là một nghệ thuật, một nghệ thuật khá cao, đậm đà tính dân tộc, có tiếng vang xa thế giới. Tranh sơn mài, lọ hoa sơn mài, bìa anbom sơn mài, bàn cờ sơn mài, hộp nữ trang sơn mài, bàn ghế sơn mài,… đấy là những món hàng quý giá mà khách nước ngoài, dù phải tốn “bao nhiêu của, mấy ngày đường” cũng tìm mua cho được. Tác giả của những thứ quý giá đó, là những người thợ thủ công Việt Nam đang miệt mài sản xuất ở biết bao cơ sở sơn mài khắp trong Nam ngoài Bắc. Người thợ sơn mài ngày nay đang gắng sức giữ cho trường tồn một cái “nghề tổ” đã xuất hiện trên đất nước này từ trước khi Chúa Gia-tô giáng thế. Ta cứ bâng khuâng tự hỏi: những người thợ sơn nào đã phủ sơn đen sơn vàng lên chiếc mái chèo và những chiếc cán giáo tùy táng trong ngôi mộ cổ Việt Khê (Hải Phòng) từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Những người thợ sơn nào đã để lại những đồ dùng của nghề sơn, như chiếc mỏ vầy (để quấy sơn) trong ngôi mộ cổ (khoảng hai, ba thế kỷ trước Công nguyên) tìm thấy ở Kim Bảng (Hà Nam cũ). Những người thợ sơn nào đã sơn những cỗ kiệu lộng lẫy vàng son ở phường Tàng Kiếm (Thăng Long) mà Nguyễn Trãi đã ghi trong “Dư địa chí”. Những người thợ sơn nào đã tạo ra “những đồ gỗ sơn son thiếp vàng, những đồ gỗ sơn (như bàn, ghế…) không thua kém nước nào” xuất khẩu ra nước ngoài vào thế kỷ 17, và được lái buôn phương Tây tên là Đampiê trầm trồ khen ngợi trong cuốn sách “một chuyến đi đàng Ngoài” của ông ta, xuất bản năm 1688? Chiếc mái chèo ở Việt Khê, chiếc mỏ vầy ở Kim Bảng là những chứng tích của tổ tiên xa xưa để lại, nói với ta rằng: vào cuối đời Hùng Vương, nghề sơn đã là một nghề thành thục của dân ta. Nếu như vậy thì cây sơn hẳn đã có mặt trên những quả đồi của đất tổ Hùng Vương từ thời thẳm xa ấy. Sơn mài là một nghề thủ công lại là một nghệ thuật. Tôi muốn nói nghệ thuật vẽ tranh sơn mài. Ít có nghề nào mà người nghệ sĩ và người thợ thủ công “keo sơn gắn bó” với nhau chặt chẽ như nghề này. Trong số các bạn họa sĩ của tôi, anh Lê Quốc Lộc là một người bạn thân đã lâu năm. Những lần đến thăm anh, tôi thường gặp ở nhà anh những lão nghệ nhân sơn mài đã trở thành bạn cố tri với lão họa sĩ. Làm tranh sơn mài như Lê Quốc Lộc không những là công việc lao động trí óc mà còn là công việc lao động chân tay. Trong lĩnh vực này, lao động trí óc mệt nhọc đã đành, nhưng lao động chân tay cũng không nhẹ nhàng gì. Ngay từ khi còn là sinh viên trường Mỹ thuật Đông Dương, anh đã “cặp kè” với một người thợ sơn trứ danh tên là Đinh Văn Thành quê ở làng Hạ Thái, một làng có nghề tổ. Anh học ở bác Thành từ ngọn nguồn nghề sơn đến những công việc cụ thể của người thợ sơn: đánh sơn, pha sơn và nhiều khâu tỉ mỉ trong việc làm thành tấm “vóc” cho tranh. Có Vóc mới có nền để vẽ tranh cũng như có đất mới có nền để xây nhà được. Thế là bàn tay họa sĩ kiêm cả bàn tay người thợ. Cho nên họa sĩ họ Lê có thể nói chuyện khá tinh tường về phần việc thủ công của nghề làm sơn mài. Cũng như những nghệ nhân sơn mài có thể nói chuyện khá tinh tường về nghệ thuật hội họa. Nghệ sĩ và nghệ nhân học lẫn nhau là thế. Cái chất dân gian trong cảm xúc nghệ thuật của Lê Quốc Lộc có lẽ cũng bắt nguồn từ sự gắn bó với những nghệ nhân tiêu biểu cho nghệ thuật dân gian. Anh nói đúng: “Nghệ thuật nào cũng bắt nguồn từ nghệ thuật dân gian. Trong bầu trời nghệ thuật dân gian nảy ra những ngôi sao sáng”. “Từ thời Phục hưng, các họa sĩ phương Tây luôn luôn băn khoăn về việc tìm chất để thể hiện… Ngoài sơn dầu, người ta đã dùng đá, đồng, sứ, cả thủy tinh, sắt thép nữa để khảm, để ghép, để gắn thành tranh. Có người đã trộn cát vào sơn dầu để tạo ra một chất mới. Họa sĩ Việt Nam kế thừa một nghề cũ của ông cha, đã tạo ra một chất mới độc đáo: chất sơn mài. Sơn mài với màu đen sâu thẳm, màu sơn chói lọi, màu vàng màu bạc lộng lẫy, tạo nên hòa sắc kỳ ảo, giúp cho ngôn ngữ của cảm xúc nghệ thuật thêm nhiều khả năng diễn tả. Mà ngôn ngữ của cảm xúc nghệ thuật thì không thể cứ sao chép tự nhiên, không thể tự nhiên chủ nghĩa. Trong cảnh tự nhiên thì trời xanh mây trắng đã đành, nhưng trong tranh sơn mài có khi trời đen, trời đỏ mà vẫn rất thực, rất gợi cảm”. Nghe họa sĩ Lê Quốc Lộc nói, tôi lại nhớ tới đại ý một câu nói của nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nadim Hichmet: “Trong thực tế, không có con ngựa nào màu xanh, nhưng vẽ ngựa, có lúc phải vẽ ngựa xanh mới đúng được cảm hứng”. Nghệ thuật dân gian ta cũng không tự nhiên chủ nghĩa, không dừng chân ở sự sao chép tự nhiên. Đấy, thử xem con lợn màu tím, lại có khoáy “âm dương” trong tranh dân gian. Và con gà có cánh có đuôi giống như cánh phượng, đuôi phượng. Vẽ tranh sơn mài có nhiều cái khó. Rất thực mà rất ảo, rất ảo mà rất thực. Họa sĩ lại phải có sức tưởng tượng nhạy bén để lường trước hiệu quả của đường nét, hình khối, màu sắc khi chúng còn ẩn dưới những lớp sơn phủ chứa màu. Vẽ sơn dầu thì thấy ngay hiệu quả vì nó lộ ngay ở nhỡn tiền. Vẽ sơn mài thì phải nén lòng chờ đợi. Có khi một bức sơn mài phải làm đến ba tháng mới xong. Giờ phút sung sướng nhất của họa sĩ là lần mài cuối cùng, kết thúc việc xây dựng tác phẩm. Họa sĩ giội nước vào bức tranh như tắm gội cho nó. Dưới hòn đá mài đã mòn, loang loáng trong nước, màu sắc lung linh của bức tranh lộ ra như một sự xuất hiện kỳ lạ. Họa sĩ là người đầu tiên xúc động trước sự sáng tạo của chính mình. Dù “có lúc sờ đến mấy ngón tay mài thì đầu ngón tay đã rớm máu, da đã chun lại vì cầm đá quá lâu, nước lại sũng vào” như Nguyễn Văn Tỵ đã tả trong một bài viết của anh thì vẫn vui mà quên hết vất vả. Năm 1958, Triển lãm nghệ thuật tạo hình đầu tiên của các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức ở Mátxcơva. Việt Nam tham gia triển lãm với tranh khắc gỗ, tranh ký họa và đặc biệt là tranh sơn mài. Trước ngày khai mạc, lúc ta dỡ hòm tranh ra để chuẩn bị trưng bày, đã có những người tò mò tìm đến. Từ những chiếc hòm độn rơm và giấy lót, những bức tranh còn bụi bặm chưa kịp lên khung, được đưa ra ánh sáng, đã bừng lên một vẻ khác thường trước mắt người xem. Nhiều phóng viên nước ngoài bị thu hút mạnh. Người ta không tiếc lời khen. Nào “hay”, nào “lạ”, nào “tuyệt”! Trong cuốn sách xuất bản ở Liên Xô năm 1959 giới thiệu tranh Việt Nam dự triển lãm Mátxcơva có đoạn viết: “…Sơn mài, với những cách diễn tả hết sức chọn lọc và quý giá, có nhiều khả năng dùng cho những sáng tác quy mô bao quát. Trong nền nghệ thuật cách mạng Việt Nam, luôn luôn hướng về những đề tài rộng lớn, sơn mài trở thành hình thức diễn tả chủ yếu, không phải là ngẫu nhiên. Khán giả Xô viết rất quý những tác phẩm như “Nhớ một chiều Tây Bắc” của Phan Kế An, “Thôn Vĩnh Mốc” của Huỳnh Văn Thuận, “Kéo pháo” của Dương Hướng Minh, “Đón giao thừa” của Lê Quốc Lộc, “Bình minh trên nông trang” của Nguyễn Đức Nùng, “Hành quân đêm” của Nguyễn Hiêm, “Tổ đổi công cấy lúa” của Hoàng Tích Chu và nhiều bức khác. Khi đi dự triển lãm ở Liên Xô, Lê Quốc Lộc mang theo tác phẩm của mình, của các bạn đồng nghiệp, và cũng không quên mang theo mấy mảnh sơn mài mẫu, kết quả thí nghiệm thành công của anh và nghệ nhân Đinh Văn Thành. Với những mảnh sơn mài ấy, anh đã đi chu du nhiều nước khác, và sau khi nghe anh thuyết trình về sơn mài, người ta đã sờ mó, ngắm nghía những mảnh bảo vật thần kỳ ấy, không biết chán. Có những nước vốn có một nền hội họa nổi tiếng lâu đời cũng được thuyết phục về nghệ thuật tranh sơn mài của ta và xin “nhập môn” vào nghệ thuật độc đáo này. ĐỖ THIÊN THƯ st.
Một phần của bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc (Nguyễn Gia Trí) TẬN NHƠN LỰC MỚI TRI THIÊN MẠNG I. Đại cương Cuộc sống đôi khi như có thời Trời trong đó. Cứ coi chuyện nhà Tây Sơn với Nguyễn Phúc Ánh thì đủ thấy. Tinh binh Tây Sơn vô đánh và chiếm được Quy Nhơn. Với khí thế đang lên, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đưa quân vào Nam với ý đồ chiếm Gia Định thì Nguyễn Phúc Ánh không còn căn cứ địa nữa nhưng đánh đâu thua đó. Nguyễn Phúc Ánh chiếm Phú Xuân xong thì đưa quân vào Nam đánh Trần Quang Diệu, phái quân ra Bắc đánh nhà Tây Sơn, đánh đâu thắng đó và sau thì diệt được nhà Tây Sơn. Đó chẳng qua thời nhà Tây Sơn đã hết rồi vậy. II. Các sự kiện minh chứng thời Trời A. Khúc Thừa Dụ giành độc lập cho Giao Châu Đối thủ tự suy tàn Nhà Tùy của Trung Hoa đem quân dọa đánh, vua Hậu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sợ quá nên đầu hàng, Giao Châu lại bị Bắc thuộc lần thứ ba. Từ năm 602 đến 906, dân Giao Châu luôn nổi lên đánh phá để giành độc lập nhưng không được. Đến thời nhà Đường của Trung Hoa cai trị, quan nhà Đường tàn ác quá nên người Mường dụ người Nam Chiếu sang đánh quân nhà Đường ở Giao Châu. Năm 863 Nam Chiếu diệt quân Đường và đặt quan cai trị Giao Châu. Vua Đường sai Cao Biểu sang đánh đuổi quân Nam Chiếu, Giao Châu lại nội thuộc nhà Đường như cũ. Trong mười năm đánh nhau giữa quân Đường và Nam Chiếu, dân Giao Châu bị giết tới mười lăm vạn người (Việt Nam Sử Lược trang 67→70). Do đó, các hào trưởng Giao Châu âm thầm tổ chức đối kháng chớ không cầu ngoại viện. Cuối thế kỷ thứ chín, Trung Hoa vào thời Đại loạn. Mặt Bắc thì Tần, Hàn, Chu, Thục, Sở chực cấu xé nhau. Mặt Tây có nước Nam Chiếu hùng mạnh đã sang đánh quân Đường ở Giao Châu. Mặt Nam thì cương vực nhà Đường còn lại là Nam Đường ốm yếu mà Chu Ôn lăm le cướp ngôi; họ Lưu rắp tâm khôi phục vị thế nhà Hậu Hán. Nhà Đường đang thoi thóp chờ chết. Thế hết hưng tới suy cứ diễn biến một cách bình thường mà thôi. Với thế Nam Đường như vậy, các bậc hào trưởng, trí sĩ biết lợi dụng thời cơ, biết xây dựng thế lực thì việc giành được độc lập ở trong tầm tay mà thôi. Hào trưởng Khúc Thừa Dụ, nhà nho Trịnh Khiển Lâm, lò võ Mai Động của Nguyễn Tam Thanh… âm thầm xây dựng thế lực rồi họ tìm đến để liên kết với nhau. Họ cho người len lỏi vào thành Đại La dưới hình thức là buôn bán. Bất ngờ họ đánh úp thành Đại La, tướng nhà Đường là Lý Bính phải đầu hàng. Khúc Thừa Dụ lại nhún mình tâu xin vua Đường phong làm Tiết độ sứ Giao Châu. Vua Đường cũng rút Lý Bính về để lo bảo vệ Nam Đường. Khúc Thừa Dụ với nội lực của Giao Châu đã giành độc lập cho Giao Châu dưới danh nghĩa là quan của nhà Đường để lo củng cố thế lực mà bảo vệ tổ quốc. (Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Đinh Bộ Lĩnh của Hàn Thế Dũng) B. Nguyễn Phúc Ánh với nhà Tây Sơn Đối thủ chết Tây Sơn khởi nghĩa đã xoay hẳn bàn cờ Việt Nam. Họ vô Nam diệt họ Nguyễn, ra Bắc diệt họ Trịnh. Dòng dõi chúa Nguyễn còn sót một người là Nguyễn Phúc Ánh. Ông tập hợp các tướng cũ của tiền triều để gầy dựng lại cơ nghiệp. Đã nhiều lần khôi phục được miền Nam nhưng ông bị Nguyễn Huệ đánh tan. Ông cầu viện Tiêm La, vua Tiêm cử hai tướng với 2 vạn quân sang cứu và bị Nguyễn Huệ đánh tan. Lúc nầy nhà Tây Sơn chia làm ba: - Nguyễn Lữ ở Gia Định - Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn - Nguyễn Huệ ở Bắc Hà để đương đầu với Trung Hoa Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại miền Nam của Nguyễn Lữ. Thấy thế khó thắng được vua Quang Trung, ông cầu viện nước Pháp. Vua Pháp thì giúp nhưng quan Pháp thì không chịu đưa quân vào. Giám mục Bá Đa Lộc tự mua mấy chiếc tàu và mộ một số lính Pháp sang giúp. Như vậy coi như Nguyễn Phúc Ánh tự lực là chánh. Nhưng khắc tinh của ông là vua Quang Trung đột ngột băng hà ở tuổi 40. Các tướng của Ngài cũng giết hại lẫn nhau: Ngô Văn Sở, Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn đều là tướng giỏi cả mà bị giết. Với tình thế như vầy, nếu không có mấy tàu chiến của Bá Đa Lộc, thiển nghĩ Nguyễn Phúc Ánh vẫn thắng được Tây Sơn. Do đó, việc cầu cứu nước Pháp là vô ích và để tiếng xấu muôn đời. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh thống nhứt được giang san và lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. C. Triệu Khuông Dẫn và việc chiếm ải Đồng Quan do danh tướng Cao Hành Châu trấn thủ Đối thủ chết Khi vua Hậu Châu là Quách Ngạn Oai muốn giết Triệu Khuông Dẫn nên ban chiếu: Lãnh binh tam thiên, tốc thượng Đồng Quan Cầm Cao Hành Châu, hồi dinh định đạt. Trấn thủ ải Đồng Quan là Cao Hành Châu, vị tướng lừng danh bách chiến bách thắng. Lịnh vua ban là phải chiếm cho được ải Đồng Quan để lấy công chuộc tội. Nếu không chiếm được thì sẽ bị giết. Với ba ngàn quân là quá ít thì làm sao chiếm ải cho được. Khuông Dẫn ở vào thế lưỡng nan thì đành phải liều vậy. Đi tới núi Côn Minh, gặp ăn cướp, Khuông Dẫn dụ được hai đầu mục là Đổng Long và Đổng Hổ, chúng đem 8.000 lâu la nhập vào quân của Khuông Dẫn. Tới núi Thái Hành Sơn, gặp ăn cướp chận đường, Khuông Dẫn cũng dụ được hai tướng cướp là Châu Bá và Lý Thông. Đầu mục là Đỗ Nhị Công dẫn 5.000 lâu la đi theo. Phần còn lại giao cho vợ ở lại điều hành sơn trại. Quân Khuông Dẫn bây giờ gộp lại đã trên mười ngàn quân rầm rộ kéo tới ải Đồng Quan. Lúc bấy giờ Cao Hành Châu chỉ là một sứ quân lẻ loi, ông lại bịnh nặng. Trung với nhà Hậu Hán thì ông có thể liều thân báo quấc. Con ông thì không có chức tước gì mà bắt phải liều thân thì tội nghiệp nên bắt vợ con phải về quê sanh sống. Quân Triệu Khuông Dẫn tới khiêu chiến mấy ngày nên Cao Hành Châu cho khai ải xuất chiến. Ông mới đứng dậy định leo lên lưng ngựa thì té nhào xuống bất tỉnh. Thấy bịnh tình mỗi ngày một nặng, liệu không đánh được, ông tự tử để tròn danh tiết. Viên phó tướng đầu hàng dâng ải cho Triệu Khuông Dẫn. Rõ ràng là cơ trời đã chuyển, không ai kéo lại được đâu. Do đó trong cách hành xử, ta tự lực là chánh. Khánh Hội - Quận 4 ngày 07-6-2018 PHẠM HIẾU NGHĨA
Phụ Bản II CÂY MAI TRẮNG KHAI SINH MỘT ĐỊA DANH Trong bộ Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển Gia Định tỉnh về mục tự quán, có ghi như sau: “Ở địa phận thôn Phú Giao huyện Tân Long, nơi đây có cái gò, trên gò có 7 cây Mai (thất Mai khâu), bóng ngả lơ thơ, mùi hương phảng phất, rất thích ý cho những kẻ tầm phương du lãm. Người xưa có lập chùa An Tôn trên đỉnh gò, năm Gia Long thứ 15 (1816) có thầy tăng trùng tu tự viện, đào được 3 miếng vàng lá rộng hơn 1 tấc, mỗi miếng nặng 3 đồng cân, trên mặt khắc Ông Phật xưa cỡi con voi, người ta nói đó là vật ngày xưa của thầy tăng trấn tháp vậy. Chùa này cũng là một thắng cảnh ở Nam Trung. Nhưng cảnh chùa khi hưng khi phế, bông Mai khi nở khi tàn, hai bên như có mặc cảm khế hiệp cùng nhau, mỗi khi bông Mai rụng hay đi xứ nào không biết thì cảnh chùa u trầm, tăng chúng lưu lạc xem rất buồn bã, kịp khi linh cơ chuyển phục giữa không tế bay về, thì cảnh chùa với hoa Mai đồng thời song song thạnh phát, không ai biết duyên cớ vì sao. Từ khi cất chùa về sau đã có hai lần vãng phục như thế, có phải Thiên nữ tán hoa chăng hay là quỳnh thụ ở Dương Châu chăng? Theo Trương Vĩnh Ký viết trong “Những ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận”, thì chùa Cây Mai ngày xưa là một ngôi chùa Chân Lạp, bao bọc chung quanh và dùng làm nơi đua thuyền trải nhã Phật. Chùa ấy đã được người Việt trùng tu. Dưới triều ông Nguyễn Tri Phương vào Nam với ông Phan Thanh Giản lập trên đồi này một các-lầu (kiosque à étage). Tên chùa do cây Mai có những hoa trắng(*) nên rất được người Tàu và Việt ưa chuộng. Theo nhà cổ học Mallerel, viết trong “Elémants d’une monographie des fortifications et Citadelles de Saigon” (Bulletin de la Société des Etude Indochinoises, tome X, 1935) thì rất có thể ngày xưa trên đồi Cây Mai có một cái đồn Chân Lạp, vì địa điểm rất là thuận tiện về mặt quân sự. Theo nhà cổ học Verdeille, rất có thể xưa kia nơi này là địa điểm Tây Cống mà vua Chân Lạp hàng năm phải nộp thuế cho Chính phủ ta. Và xưa hơn nữa là địa điểm Prei Nokor (Rừng nhà vua), tức là thủ phủ của vua Chân Lạp thứ hai là Nặc Ông Nộn, vào năm 1674, còn vua thứ nhất ở Oudong tức Vương Luông. Trịnh Hoài Đức xếp chùa Cây Mai là một trong 30 thắng cảnh của đất Gia Định xưa. Mai Khâu - Túc Hạc (Trịnh Hoài Đức) Cửa cao thanh sạ bá vu Thiên Chuyển hướng mai khâu hảo khế miên Tuyết cách biết bao hành tị dặc Sương binh mạn liễn học kham thiền Tự khoa nhã tháu đồng thanh bạch Thả hứa phương danh cộng bão tuyền Mộng lý ký bằng lâm xử sĩ Mặc lai u hác nhiễu khiến triều. Dịch thơ: Hạc ngủ đêm ở gò Cây Mai Chín đẫm tiếng hạc vẳng lưng trời Đổi hướng gò mai đến nghỉ ngơi Tránh đạn nhọc gì lông tuyết sẵn Tham thiền xếp lại cánh sương thôi Tự khoe tuyết sạch cùng trong trắng Lại hẹn danh thơm chẳng biến đời Hồn mộng gởi hương lâm xử sĩ Chốn này u nhã chớ đùa chơi. (Nguyễn Khuê dịch) Từ năm 1805, vua Gia Long đã kiến tạo gò Cây Mai thành một cơ sở quân sự. Đến năm 1815, có xây thêm hào lũy chung quanh, nay chỉ còn lại những đường mòn. Năm 1859, trong khi đô đốc Rigault de Genouilly tiến đánh thành Gia Định, thì Cây Mai là địa điểm chiến lược của tướng Tôn Thất Thiệp. Năm 1860, kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương đã cầm cự và chiến đấu anh dũng tại đây với đại úy Fernadez (người Ý), trước khi rút về cố thủ tại đồn Kỳ Hòa. Đến ngày 24-2-1861, đô đốc Charner đã khởi binh theo chiến tuyến ba chùa Khải Tường, Cảnh Phước và Cây Mai, để đánh Kỳ Hòa. Từ đó về sau, đồn Cây Mai đã sống ảm đạm trong cảnh quốc biến gia vong và cây bạch Mai cũng không chịu trổ hoa, như để thông cảm với vận nước. Chùa Cây Mai là nơi tụ họp của Bạch Mai thi xã trong đó có Tôn Thọ Tường. Sau khi Pháp chiếm, Tôn Thọ Tường làm bài vịnh chùa Cây Mai: “Đau đớn cho Mai cách dưới đèo Mười phần trong sạch phận cheo leo Sương in tuyết đóng cành thưa thớt Xuân tới thu về sãi quạnh hiu Lặng lẽ chuông quen con bóng xế Tò le kèn lạ mặt trời chiều Những tay rượu thánh thi thần cũ Trông cảnh bao nhiêu, tiếc bấy nhiêu”. “Đến mùa Mai nở, cả đồi là một bức tranh vẽ toàn hoa trắng lá xanh. Lại thêm xa tận chân trời, cánh đồng lúa chín bao la, rộng rãi chẳng khác chi một tấm khảm nhung hồng, dập dờn như sóng gợn, dưới ngọn gió chiều nhẹ thoảng. Huơng của hoa Mai hòa hợp cùng mùi thơm của lúa, thêm phần quyến rũ cho cảnh chùa Cây Mai, một nơi thoáng đạt tinh thần dễ khiến thi sĩ văn nhân lai láng hồn thơ, chứa chan tình cảm”. Năm 1956, quân đội Pháp rút, đồn Cây Mai lại do quân đội ngụy chiếm đóng, nơi này đã biến thành một trường huấn luyện quân sự. Ngày 7-11-1960, nhà thơ Đông Hồ cậy cục tìm cách vào được đồn nhìn thấy cây Mai “trên một cành già, nép dưới mấy lá nõn mới chồi, năm ba điểm ngọc trắng tinh e dè hé nụ”. Nhà thơ đã làm một bài thơ họa lại bài thơ của Tôn Thọ Tường: Lọ thẳm khơi song chót vót đèo Rồng thiêng tiên náu bước xuân leo Giang Nam ruộng cũ xuân man mác Thi xã hồn xưa gió hắt hiu Cốt cách thẹn thò băng ngọc tối Phong tao e ấp tuyết sương chiều Năm ba hé nở năm ba nụ Tâm sự nghìn xưa chút bấy nhiêu. Từ khi Pháp đóng đến ngày 30-4-1975 là 115 năm, cây bạch Mai có 300 lịch sử, đã trải qua hơn 100 năm mất nước để hôm nay lại vươn cành giữa trời đất tự do và độc lập. BÙI VĂN QUẢNG (BĐ. st.) --------------- (*) Theo PTS. Lê Minh Trung, Công ty Công viên Cây xanh, Mai trắng, còn gọi là bạch Mai, Mai xiêm, Mai mù-u. Tên khoa học: Ochrocarpus siamensis var odoratissmus Pierre, thuộc họ Bứa (Guttiferae), cùng giống với cây Trau tráu (Ochrocapus siamensis T.Andres). Mai trắng ra hoa vào tháng 3, hoa màu trắng, thơm, thường được trồng khắp Nam Kỳ lục tỉnh. VÀI DÒNG VỀ LINDAU, MỘT THÀNH PHỐ NHỎ NHẮN & CỔ KÍNH Ở CỰC NAM NƯỚC ĐỨC Mùa Nobel, mọi chú ý lại đổ dồn về thủ đô Stockhom của Thụy Điển, nơi những phát minh, sáng tạo và cống hiến khoa học vĩ đại nhất lần lượt được tôn vinh. Song có một nơi khác ở châu Âu rất nổi tiếng, điểm hẹn của các nhà khoa học đoạt giải Nobel trên toàn thế giới suốt hơn nửa thế kỷ qua. Nơi ngã ba biên giới ở châu Âu. Lindau, thành phố nhỏ nhắn và cổ kính ở cực nam nước Đức, nơi ngã ba biên giới tiếp giáp với Áo và Thụy Sĩ. Đều đặn từ năm 1951 đến nay, năm 2014 này là lần thứ 64 họ gặp nhau. 38 nhà khoa học đoạt giải Nobel về Y học cùng 600 nhà khoa học trẻ từ 80 nước trên thế giới đã đổ về Lindau để trao đổi, tọa đàm và thuyết trình về những ý tưởng hoặc thành tựu mới nhất trong lĩnh vực y học và y sinh học. Bằng cách thức gặp gỡ quốc tế đậm tính trao truyền này, tại Lindau sự giáo dục không chỉ dừng lại ở những điều học được trong sách vở, mà nó còn là niềm cảm hứng và những trải nghiệm quý báu của các nhà khoa học nhiều thế hệ mang đến cho nhau. 38 nhà khoa học đoạt giải Nobel tiến vào hội trường trong tiếng vỗ tay vang dội. Lindau là một thành phố rất nhỏ và thanh bình, đó là một hòn đảo nằm phía bờ Đông của hồ Constance với diện tích vẻn vẹn 0,68km2, dân số hơn 2 vạn người. Từ thành phố nơi ngã ba biên giới này tôi có thể sang Áo và Thụy Sĩ uống cà phê buổi sáng như đi từ khu này sang khu khác trong một thành phố vậy. Từ Lindau thuộc Đức, tôi tới thành phố Bregenz thuộc Áo chỉ vẻn vẹn có mươi phút tàu điện, chạy liên tục mỗi tiếng một chuyến. Sang Thụy Sĩ cũng tương tự như vậy, tuy nhiên tôi thấy dân Thụy Sĩ sang Lindau ăn uống nhiều hơn so với chiều ngược lại bởi giá cả bên Đức rẻ hơn rất nhiều. Chủ một tiệm ăn người Việt ở Lindau kể, có mấy ông bà già người Thụy Sĩ tuần nào cũng sang đây ăn uống thoải mái rồi “bo” rất hậu hĩnh. Hồ Constance ở phía Bắc dãy núi Anpơ, nằm lọt giữa 3 nước Đức - Áo - Thụy Sĩ là hồ nước ngọt lớn thứ 3 ở Trung Âu, chỉ đứng sau hồ Balaton của Hungary và hồ Geneva của Thụy Sĩ. Hồ có chiều dài tới 63km, rộng 14km, bao phủ một diện tích lên tới 571km2. Chiều sâu trung bình của hồ là 90m, chỗ sâu nhất lên tới 252m. Tôi tới Lindau vào những ngày đầu tháng 7 vừa qua, trời nắng đẹp đứng bên bờ hồ phía Đức có thể nhìn rõ những dãy núi xa xa phía Áo và Thụy Sĩ. Chốc chốc lại có một chuyến tàu du lịch cỡ lớn cập bến đổ khách từ Thụy Sĩ và Áo xuống, chủ yếu là người già vì họ có nhiều thời gian rỗi rãi và thường dư dả về tài chính. Lindau đúng nghĩa là một thành phố du lịch, nghỉ dưỡng với phong cách cổ điển và thanh bình, quả là nơi đắc địa lý tưởng dành cho các cuộc gặp gỡ của đỉnh cao trí tuệ như giải Nobel. Hầu hết mọi con đường ở Lindau đều lát đá dành cho người đi bộ với lối kiến trúc cổ điển châu Âu quyến rũ mê hồn du khách. Phố xá sạch tinh tươm, đậm dấu ấn của nghệ thuật kiến trúc gothic trên mọi góc phố. Một góc Lindau Không khí trong veo, nhẹ tênh khiến ta phải hít căng lồng ngực để tận hưởng, những tháp chuông nhà thờ cao vút, những ngôi nhà cao nhất cũng chỉ 3-4 tầng với ban công mềm mại phủ đầy hoa hoặc dây leo, những cánh cổng biệt thự xinh xắn, sự thư thái của những con người nơi đây, tất cả tạo nên một ấn tượng cực kỳ dễ chịu và văn minh. Đặc biệt vào buổi chiều tối se se lạnh, những con phố lát đá ở trung tâm Lindau thật quyến rũ, chúng được nhuộm một màu vàng óng quý phái của đèn đường với những quán ăn, quán cà phê được bài trí sang trọng từ trong nhà ra đến tận vỉa hè. Khăn trải bàn trắng muốt, nến lung linh, tiếng vĩ cầm réo rắt đâu đây, ngồi ăn tối hoặc nhâm nhi ly cà phê giữa thành phố cổ kính nơi ngã ba Đức - Áo - Thụy Sĩ này quả là một trải nghiệm thú vị, không thể nào quên. Không khoa trương Lễ khai mạc hội nghị Nobel, hội trường lớn cả ngàn chỗ ngồi ở Lindau không còn một chỗ trống. Gần 40 nhà khoa học đoạt giải Nobel xếp thành một hàng dọc lần lượt đi vào hàng ghế danh dự ở giữa hội trường trong tiếng vỗ tay vang dội đầy ngưỡng mộ của 600 nhà khoa học trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới, các khách mời và giới truyền thông. Có một điều khác với các hội nghị hay lễ lạt thường thấy ở Việt Nam, mấy chục nhà báo quốc tế chúng tôi lại được xếp ngồi ở những hàng ghế trên cùng sát với sân khấu, còn những nhân vật chính của hội nghị là các nhà khoa học lẫy lừng thế giới, các yếu nhân khác như Bộ trưởng Giáo dục và Nghiên cứu liên bang Đức - GSTS Johanna Wanka; Chủ tịch UB Nobel về Y học và Sinh lý học (Physiology) Viện Karolinska (Thụy Điển) Klas Karre - nơi xét trao giải thưởng Nobel hàng năm cho các nhà khoa học trong lĩnh vực này; nữ bá tước, Chủ tịch Ủy ban Hội nghị Lindau Nobel Bettina Bernadotte ngồi ở phía... giữa hội trường. Như vậy, quan niệm bất thành văn thường thấy ở ta là quan khách quyền cao chức trọng thường tọa ở những hàng ghế đầu tiên đã bị đảo lộn, ít ra là ở Lindau này. Buổi lễ khai mạc diễn ra gọn gàng chừng hơn 1 tiếng, song tuyệt nhiên không có bất cứ bài phát biểu nào của các nhân vật chính là các nhà khoa học đoạt giải Nobel, cũng không thấy nhà nghiên cứu trẻ nào lên phát biểu như ở ta, chỉ thấy mấy bài đít-cua của nhà tổ chức, của vị bộ trưởng và màn ra mắt một kênh truyền hình khoa học có tên ARD Alpha. Có lẽ những màn hình thức, khoa trương, nói lời chúc tụng có cánh này nọ không hợp với những nhà khoa học tài năng xuất chúng này chăng. Liếc qua cái lịch trình của Hội nghị diễn ra trong 5 ngày được đóng thành quyển dày tới 95 trang sẽ thấy, bắt đầu từ sáng sớm 9h - 17h mỗi ngày, cái bục diễn thuyết trên kia mới là của họ, lịch xếp kín mít cứ nửa tiếng một xuyên qua trưa là các bài giảng, tranh luận, thuyết trình của các nhà khoa học cả già lẫn trẻ - những người từng được giải Nobel và những ứng cử viên Nobel đầy tiềm năng trong tương lai. Trong gần 40 bộ óc vĩ đại bậc nhất hành tinh lần này xuất hiện tại Lindau có tới 19 nhà khoa học của Mỹ, 5 nhà khoa học Đức, Anh và Pháp có 3 nhà khoa học, Thụy Sĩ, Úc và Israel mỗi nước có 2 nhà khoa học. Còn trong tổng số 600 nhà khoa học trẻ đến từ 80 nước trên khắp thế giới được Ban tổ chức mời tham dự hôm nay, đông nhất vẫn là những người mang quốc tịch Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Ấn Độ và Trung Quốc. Tôi lật đi lật lại mãi cuốn danh bạ về 600 nhà khoa học trẻ được phát (Index by Nationality, Index by Country) mà không tìm thấy bất cứ nhà khoa học nào đến từ Việt Nam hoặc mang quốc tịch Việt Nam. Đoàn nhà báo quốc tế gồm hai chục người đến từ các nước như Mỹ, Anh, Canada, Hàn Quốc, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Nga, Ba Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Chile, Brazil, Botswana đều được BTC sắp xếp để gặp gỡ và phỏng vấn các nhà khoa học trẻ đến từ đất nước của họ, riêng tên tôi trong lịch phỏng vấn bị để trống với dòng chữ “đang tìm người phù hợp” (trying to find a match for Nguyen). Đương nhiên là họ không tìm ra. Hơi chạnh lòng một chút vì thú thật trước khi sang đây tôi tự tin nghĩ rằng, thể nào chả gặp các sinh viên hay nghiên cứu sinh Việt Nam đang du học rất đông ở Đức và các nước châu Âu khác. Hỏi chuyện một nhà báo Đức đã có nhiều năm theo dõi hội nghị Lindau này mới biết, những nhà khoa học trẻ này thường đang làm luận án tiến sĩ hoặc thậm chí là sau tiến sĩ tại các trường đại học hoặc viện nghiên cứu trong lĩnh vực y học hoặc sinh lý học, anh nói hầu như không thấy các nhà khoa học trẻ Việt Nam. Có thể tôi đã nhầm, bởi hầu hết các học sinh Việt Nam ngày nay, cho dù học ở trong hay ngoài nước, đều học các ngành “thời thượng” để dễ xin việc sau này, rất ít người muốn làm nghiên cứu khoa học. Tôi cũng nói chuyện với nhiều nghiên cứu sinh đến từ các nước khác nhau về trình độ phát triển trên thế giới, dù nước giàu hay nước nghèo, họ đều thể hiện một niềm đam mê nghiên cứu đến cháy bỏng, đều đến đây với mục đích được trực tiếp nghe các bài giảng của những nhà khoa học nổi tiếng, trao đổi và thậm chí là tranh luận với các bộ óc thiên tài này. Trong số 600 nhà khoa học trẻ hôm nay, liệu có ai sẽ tiếp bước theo 40 nhà khoa học đoạt giải Nobel mà họ gặp ở Lindau lần này, tiếp tục cống hiến cho nhân loại những phát minh vô giá? Tôi tin là sẽ có, bởi những cuộc gặp gỡ như thế này chắc chắn sẽ tiếp thêm động lực và hoài bão cho họ vươn xa. Phẩm chất “Nobel” Trong những ngày ở Lindau, tôi may mắn được gặp gỡ và đặt nhiều câu hỏi phỏng vấn một người rất nổi tiếng, đó là nhà nữ khoa học người Pháp đoạt giải Nobel năm 2008, người đã tìm ra virus HIV và đang dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu và hoạt động xã hội chống lại căn bệnh HIV/AIDS, GS-TS Françoise Barré-Sinoussi . Chính bà là người viết thư ngỏ công khai chỉ trích giáo hoàng Benedict XVI vì ông này đã bác bỏ việc sử dụng bao cao su như là một phương pháp để phòng lây bệnh. Đặc biệt, bà rất gắn bó với Việt Nam, với Viện Pasteur Tp.HCM, đã sang Việt Nam rất nhiều lần kể từ năm 1988 tới nay để giúp chúng ta phòng ngừa căn bệnh thế kỷ. Hôm đó, số lượng các nhà báo quốc tế đăng ký phỏng vấn bà đông chưa từng thấy, đến nỗi khán phòng chật ních không còn một chỗ trống. Rất nhanh chóng, tôi mở màn cuộc phỏng vấn, khi giới thiệu mình là nhà báo Việt Nam, tôi thấy bà phấn chấn hẳn lên và dành cho tôi một ngoại lệ đặt liên tiếp 3 câu hỏi trong sự “la ó” của hàng chục đồng nghiệp quốc tế khác. Bà nói Việt Nam là một trong số ít các quốc gia đang phát triển trên thế giới đấu tranh rất hiệu quả với căn bệnh HIV/AIDS. Bà cho biết, hiện vẫn giữ thói quen làm việc chăm chỉ 7 ngày mỗi tuần, 13 tiếng mỗi ngày dù năm nay đã 67 tuổi. Mỗi buổi sáng, khi xuống ăn sáng dưới tầng trệt tại khách sạn xinh xắn nơi tôi ở, hay bắt gặp cảnh hai ông bà già rất đẹp lão nhỏ nhẹ ngồi uống cà phê bên chiếc bàn cạnh cửa sổ. Cụ ông tóc bạc phơ, dáng thư sinh nho nhã, tôi thầm nghĩ chắc họ đi du lịch và tận hưởng bầu không khí trong lành, thư thái nơi hòn đảo này. Nào ngờ, khi dự buổi phỏng vấn người đoạt giải Nobel y học vì có công tìm ra virus ung thư cổ tử cung (HPV), để từ đó cho ra đời vaccine chống ung thư cổ tử cung vào năm 2006, tôi mới nhận ra ông già đẹp lão đó chính là GS-TS Harald zur Hausen ở Viện nghiên cứu ung thư Heidelberg (Đức), ông năm nay đã 78 tuổi. Ung thư cổ tử cung là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Cái cách ông trả lời phỏng vấn cũng nhỏ nhẹ và điềm đạm như khi ông ngồi ăn sáng vậy. Ông nói hy vọng rồi đây vaccine HPV sẽ rẻ hơn và phổ biến hơn cho mọi người, bởi hiện nay chúng còn khá đắt. Ngay tại Đức cũng đã lên tới hàng trăm euro một liều. Tôi còn được dịp trò chuyện với nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel y học khác như GS Bruce A.Beutler (Mỹ, Nobel 2011), GS Brian K.Kobilka (ĐH Stanford, Mỹ, Nobel 2012), GS Rolf M.Zinkernagel (Thụy Sĩ, Nobel 1996)… Thú thực, người trần mắt thịt như tôi khó mà có thể hiểu được những phát minh, hiểu hết được tầm quan trọng cũng như cống hiến khoa học cho nhân loại của họ. Chỉ biết những phát minh đó liên quan tới cơ chế hoạt động của hệ miễn dịch của con người, cơ chế chữa bệnh của các loại thuốc tây hiện đại, nhờ đó giúp chữa trị hay phòng ngừa được các bệnh nan y cho con người. Bên ngoài những bộ óc vĩ đại ấy là những con người bằng xương, bằng thịt đang ngồi trước mặt tôi đây, đang vui vẻ trả lời mọi câu hỏi, thậm chí có phần còn ngô nghê (có thể do chưa hiểu kỹ) của các nhà báo. Tất cả họ đều toát lên sự giản dị, chân thành và hết sức gần gũi từ cách ăn mặc đến tác phong, lời nói. Dường như một khi bộ óc của ai đó càng phát triển, càng hiểu biết, họ càng không để ý đến những màu mè hình thức bề ngoài. Lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy cùng một lúc nhiều bộ óc vĩ đại, nhiều giải Nobel đến như vậy ở Lindau này. Ngắm nhìn họ trong những trang phục hết sức giản dị, và vô cùng ngưỡng mộ họ về những cống hiến lớn lao, vô vụ lợi cho sự phát triển đích thực của nhân loại, càng thấy sự vĩ đại của những nhà khoa học này. Không có họ, không có nền văn minh này. Không có họ, nhân loại làm sao phát triển được? Xin mượn câu nói của nữ GS người Pháp đoạt giải Nobel vốn dành nhiều thiện cảm cho Việt Nam, bà Françoise Barré-Sinoussi thay cho lời kết của phóng sự này: “Làm khoa học không phải vì sự nghiệp, cũng không phải vì tiền, mà là vì mọi người”. Không có đại diện từ Việt Nam Trong tổng số 600 nhà khoa học trẻ đến từ 80 nước trên khắp thế giới được Ban tổ chức mời tham dự hôm đó, không có nhà khoa học nào đến từ Việt Nam hoặc mang quốc tịch Việt Nam. Trong khi đó các nước nghèo hơn ta, thậm chí chưa bao giờ thấy họ có thành tích trong các giải thi Olympic quốc tế các môn khoa học cơ bản như toán, lý, hóa, sinh… như Việt Nam lại hiện diện ở nơi đây. Campuchia ngay sát ta cũng có 1 nhà khoa học trẻ được mời tham dự, các nước khác như Kenya, Algeria, Zimbabwe, Cuba… mỗi nước đều có 1 người tham dự, thậm chí một nước rất nghèo ở châu Á là Bangladesh lại có tới 3 nhà khoa học trẻ tham dự khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Theo Việt Hùng-Tiền Phong - Đào Minh Diệu Xuân st.
Một góc Lindau XUÂN CHÚC Chúc xanh mái tóc ánh mộng cười Bay bay trong gió giấc tình lơi Dẫu chen đâu đó dăm sợi bạc Vẫn đẫm phong sương với đỉnh trời Chúc xuân trong mắt lóng lánh tươi Nhìn thêm xa rộng khắp phương trời Dẫu đôi ba phút mờ sương mỏng Vẫn sáng long lanh với những gọi mời Chúc môi tươi tắn những nụ cười Phiêu từng câu hát lúc thảnh thơi Dẫu cho đôi lúc hơi mim mím Vẫn hé tình thơm với ngọc đời Chúc tim âm ấm những đầy vơi Thân yêu mà sóng với người người Dẫu cho đã lúc từng nhoi nhói Lại khúc ân tình tha thiết ơi Chúc sáng hương mùa thênh thang phố Rộn tiếng mê say khắp ngả đường Tung tăng phơi phới bừng đôi cánh Xây những nguy nga những chọc trời Từng xuân vui đến từng xuân chúc Cho những ngày xanh những nuột nà Dù bao mưa nắng cùng giông gió Vẫn sáng hiên đời đóa huyền ca. ĐÀM LAN Niềm tin và Ước vọng Tùng bách vươn cao đẹp tuyệt trần Sức già - vóc hạc vẫn thanh xuân Hồn thơ diễm lệ còn tươi thắm Nét bút thanh tao vẫn xuất thần Danh lợi nhạt nhòa - không đoái tưởng Nghĩa tình sâu sắc đậm thiên ân Phúc như Đông Hải - tâm ngời sáng Giữ vẹn muôn đời Thiện Mỹ Chân. NGÀN PHƯƠNG Cúc đại đóa Mỉm cười rạng rỡ nét cao sang Cánh mượt mà tươi lấp lánh vàng Cành biếc - nụ xinh mơ tuyệt đỉnh Mưa chiều nắng sớm - mộng đăng quang Hương tinh khiết tỏa tràn hiên vắng Sắc ngọc ngà vương khắp xóm làng Duyên dáng - thanh tao và yểu điệu Xứng danh người đẹp chốn đài trang. NGÀN PHƯƠNG NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM Năm hết rồi ngày của cuối năm Xé tờ lịch cũ bâng khuâng buồn Âm thầm... thời gian lặng lẽ trôi Bạc đầu mái tóc xõa buông lơi Tuổi già chập chững còn ngơ ngác Cây viết bồn chồn chữ nhả thơ Trang giấy tinh khôi trang giấy mở Một bài thơ mới trang thơ buồn. Huỳnh Thiên Kim Bội Thơm Nàng được gọi là thơm Nàng cũng gọi là khóm Nàng mặc áo xù xì Dáng vẻ ngoài xấu xí Trong lòng ngọt vàng thơm Đón nàng về Thi viên Giữ lại cành lá sậm Yêu nàng ta nhìn ngắm Dịu dàng của nàng thơ Một mình buồn vu vơ. Huỳnh Thiên Kim Bội Nỗi Buồn Tháng Chạp Bây giờ giữa tháng Chạp Với nguyên nỗi buồn tôi Phương trời xa cùng tận Tình vương vấn bên đời
Biển - mình tôi chới với Lặng lẽ cõi hồng trần Đời như vướng gai nhọn Lạc rồi lối tình quân
Nắng buồn giữa tháng Chạp Đông se lạnh giáp năm Tình đen giờ nhật thực Lạc lối ngày thanh xuân
Tìm trong đêm cô tịch Hư ảo những canh dài Thẫn thờ theo ngày tháng Cõi buồn dấu tình phai.
Nỗi buồn nào da diết Ảnh hình trong giấc mơ Đã vạn lần in dấu Sắt se lòng ngu ngơ.
Dấu tình trong đôi mắt Giấc đêm nào ngủ yên Buồn gieo neo chất ngất Buồn ơi !... Đừng qua Giêng ! Phạm Thị Minh-Hưng BÚT XUÂN Ngày xuân đã đến kia rồi Phút giao thừa điểm, bồi hồi tâm can Tóc xanh nhuốm bạc thời gian Mà thơ vẫn đượm mênh mang điệu tình Con tim vẫn sáng lung linh Như còn nguyên vẹn thuở mình đôi mươi Bởi cây đời mãi xanh tươi Đào, Mai khoe sắc, nụ cười khoe duyên Xa rồi những bước truân chuyên Mưa rừng, gió núi bưng biền ngày xưa… * Giờ còn cầm bút làm thơ Muôn vàn hạnh phúc đón chờ - đợi ta Lặng thầm trận tuyến thi ca Ta gieo mầm sống chan hòa tin yêu Tuy rằng tuổi đã về chiều Bao nhiêu gai góc gây nhiều xót xa Bút xuân bút lại nở hoa Vững vàng xông trận… trừ tà diệt tham… Trăm ngàn ngày, vạn ngàn sau Bút thơ vẫn giữ một màu thép nung Xuân về hoa nở tưng bừng Chúc cây lộc thọ không ngừng tỏa hương. XUÂN VÂN Như đã vào xuân Chưa thấy Én về qua ngõ Trúc Ngoài sân đã nở một nhành Mai Nửa đêm nghe gió mang hơi lạnh Có phải chờ mong thấy năm dài Sương nhuộm trắng đầu quên mất tuổi Nhớ xưa xuân tới đón giao thừa Mong cho trời sáng mang áo mới Chấp tay mừng tuổi đứng “dạ thưa”
Nhớ lắm sân nhà rực rỡ Mai Tàn đêm hương tỏa lạnh canh dài Được thêm một tuổi mừng xuân thắm Mặt ngời mắt sáng hướng tương lai Đêm gặp người ta trước cổng chùa Giao thừa lễ Phật được duyên ưa Đã rất nhiều năm về viếng cảnh Cửa thiền ai hát “về hay chưa ?”
Mai vẫn Mai của chúa xuân Như nàng trinh nữ phút bâng khuâng Nhè nhẹ bay bay từng sợi tóc Mong thành tơ thắm buộc chim rừng.
NGUYÊN LÊ - TRẢNG BÀNG Thơ phơ mái tóc Nhớ thời ấu thơ Công Cha như núi Thái Sơn Mẹ như biển cả nước nguồn không vơi Vẫn còn đọng mãi trong tôi Vui khi cửu nhị nhớ thời ấu thơ Mẹ cha kể chuyện ngày xưa Nhị Thập Tứ Hiếu sớm trưa ru hời Âu Cơ trăm trứng biển trời Vua Hùng dựng nước rạng ngời Thăng Long Cúc Hoa nào chuyện Tống Trân Trưng Vương, Triệu Ẩu ngọc thân những là Công Cha nghĩa Mẹ bao la Dạy con gìn giữ nếp nhà gia phong Gái thời Tứ đức Tam tòng Trai thời quốc nước cố công luyện rèn Mong con chí cả cho bền Có công mài sắt nên kim đó mà Không thơm cũng thể loài hoa Hoa Dâm Bụt sẽ khác xa hoa Nhài Công ơn Phụ Mẫu biển trời Phù đồ chín bậc không đời nào quên. HOÀNG THỊ VINH XUÂN NHỚ QUÊ Lần theo ngày tháng xuân về Rộn ràng chim én mải mê lượn vòng Bình minh hé rạng hừng đông Khung trời lồng lộng mênh mông phố thành * Hồi trang ký ức tuổi xanh Nhớ về quê Mẹ ân tình bao la Tiếng gà khuya gáy xa xa Dặm dài theo kịp bước Cha xuống đồng * Thương cây lúa trổ đòng đòng Biết bao khổ nhọc mới thành hạt cơm Tháng ba lộng mát gió nồm Con chim tu hú đầu thôn gọi đàn * Chà là chín mọng đồi quang Bước theo chân Mẹ vai mang gánh gồng Tháng năm hàng phượng trổ bông Nỗi niềm tạm biệt bạn hồng chia tay. ĐINH THỊ DIỆU PHÚC XUÂN Bất ngờ mưa bụi lây rây Tiết Trời đổi gió chuyển ngày sang xuân Nụ hồng mơn mởn tơ vân Sắc khoe xanh biếc xa gần gấm thêu Bỗng dưng nhớ lại thơ Kiều Ngày xuân chim én dập dìu tin xuân Qua rồi đông giá phong vân Bình minh lấp lánh sáng ngần sao mai
Xuân về phơi phới Trời mây Như in dải lụa lòng đầy hân hoan Thắm tươi cờ đỏ sao vàng Nước non hoa gấm vẻ vang, thanh bình Dòng đời vẫy gọi nhân sinh Niềm tin sức sống nghĩa tình đẹp tươi Tình yêu hương mật rạng ngời Câu thơ, điệu lý vạn lời ngợi ca
Phúc xuân đến với mọi nhà Đất Trời rạng rỡ, chan hòa tình xuân Hương xuân ngát thắm lộng vần Ngày xuân sáng mãi nghĩa nhân trường tồn. Nhà giáo LƯƠNG VĂN NHUNG CHÙM THƠ XUÂN TÀO KHỞI Oanh hót với hoa cười Cảnh xuân dành cho ai. LÝ BẠCH Vó ngựa dẫm trên hoa rơi Lướt như xe mây ngũ sắc Người đẹp vén rèm đưa mắt Chỉ lầu hồng nhà thiếp ven đồi. THIỀN SƯ VẠN HẠNH Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng mất Đêm qua sân trước một cành mai. VÔ DANH Xuân đi hoa vẫn nở Xuân ở hoa vẫn rơi Bận lòng chi rơi nở Tự tại lòng thảnh thơi. Trước xuân Canh Dần 2010 LÊ NGUYÊN Họa Bài NGÀY XUÂN CHỢT VỊNH Tại sao gọi tết, bởi đâu ra ? Tết của chúng ta, tết nước nhà Ngoài phố vang rân mời cá thịt Trong đồng ỏm tỏi réo heo gà Vườn bông giành giựt đào, mai lý Thềm chợ nhường nhau gấm, lụa là Cảnh đấy hỏi người ai sắp đặt Hay do tạo hóa vẽ duyên mà ! LANG NGUYÊN Bình Bài NGÀY XUÂN CHỢT VỊNH Xuân đến xuân đi thật mượt mà Xuân từ trời đất mới ban ra Xuân đem hoa nở, cây tươi lá Xuân nẩy chồi đơm, sẽ đẹp hoa Xuân sớm gió đưa thêm mát mẻ Xuân chiều ác rọi hắt hiu tà Xuân sang bao cảnh chìu du khách Xuân tận thành đô bóng nguyệt xa. LANG NGUYÊN CON VỀ Chỉ vài hôm nữa, xuân lại về Lòng mẹ già thắc thỏm, u mê Mong gánh hàng xiêu không còn ế Mẹ con chan chứa tối cà phê… Chỉ vài hôm nữa, con sẽ về Nghĩ thế mà tim đã thỏa thuê Cần chi bánh quà cho tốn kém Mọi thứ đủ rồi, con nhớ chưa ? Chỉ vài hôm nữa mẹ bát tuần Biết con đã hái được tình duyên Niềm vui bỗng gấp trăm gấp vạn Rượu sinh nhật ôi chao nồng nàn… Vài hôm nữa, mai sẽ hực vàng Như thế là mẹ đẫm mùa xuân Giả như mai quên không khai nhụy Có con, xuân đã quá huy hoàng… TẾT NGHÈO Tết này nghèo lắm, thế nhân ơi Thân hữu gần xa chẳng dám mời Xuân sang, lóc cóc cành mai giả Nợ réo, lung tung ngọng lãi trời Thướt tha áo nắng, bầy chim hót Mê mải tiền xuân, lũ trẻ cười Cửa đóng, nhưng then không cài đấy Vào cho tôi sẻ bớt ngậm ngùi… LAM TRẦN BẨY MƯƠI Bảy mươi mùa xuân hay mùa thu Mưa thu còn giăng mắc sương mù Bạc phơ vừa vương trên mái tóc Gió bụi thời gian in mắt nâu Bảy mươi lặng lẽ bước qua thềm Chút buồn còn trăn trở bao đêm Nhớ thương thương nhớ riêng mình biết Tình xa xưa đó chỉ sầu thêm Bảy mươi rồi cũng thoáng qua mau Yêu thương như tà áo phai màu Ngày tháng dần qua mơ mộng cũ Xin trả lại người những đậm sâu Bẩy mươi mờ khuất bóng xuân xanh Mười năm cứ mãi bước loanh quanh Soi gương bỗng thấy thương mình lạ Nhưng đến giờ đây ước mộng thành. HOÀI LY NỖI NIỀM Sách - Thơ trang trí đẹp ghê Cổng vào nhìn ngắm thấy mê mẩn liền Cây Thông - máng cỏ trước hiên Noel tết đến - đoàn viên Xuân về Thơ ca chuẩn bị chủ đề Tất Niên mời dự không hề nhạt phai Đâu đây vọng tiếng thở dài Não nùng tạm biệt ! Bi ai xa rời Hẹn ngày tái ngộ thay lời Bắt tay lưu luyến - thân mời thiết tha Tháng sau ta lại gặp ta Tốt lành - vui khỏe đó là ước ao Cúc - Lan hương sắc ngạt ngào Mai vàng hé nụ đón chào Xuân sang. VŨ THÙY HƯƠNG Hoa đón nụ Hoa nàng chào đón nụ tình anh Trong nắng huy hoàng rộn yến oanh Lũ bướm dập dìu bay trước ngõ Vang lừng nhạc trổi khúc xuân xanh ! THANH PHONG DI NGÔN Vui buồn sướng khổ đã bao phen Dày dạn phong trần lắm, cũng quen Mai mốt thong dong rời cõi tạm Hân hoan gửi lại chút ... ưu phiền ! Xuân này bảy chín cái xuân xanh Thấm thoát thời gian trôi quá nhanh Mắt kém nhìn lâu, nhìn chẳng đặng Chân run bước chậm, bước không đành Bâng khuâng nhớ mãi thời son sắt Khắc khoải thương hoài phút mỏng manh Dạo gót công viên chiều lá đổ Ngỡ ngàng : Ai đó gọi tên anh...!!! THANH PHONG VAY TIỀN ... PHẬT ! Di Lặc năm nay quả phát tài Không cần lao động cũng dư xài ! Xin Ngài hoan hỉ cho vay ít Năm tới, con thề : trả gấp hai !!! THANH PHONG THĂM QUÊ Người đi xa xứ nhớ về quê Thời gian nhanh quá tết cận kề Chiều tà gió thổi lòng xao xuyến Xa cách đã lâu xuân này về Xe tốc hành chạy mau đến nhà Đời sống gian khổ nay đã qua Quê hương đổi mới mừng vui sướng Ruộng lúa vàng mơ khắp làng ta
Gặp lại người thân lòng phấn khởi Ly rượu chung trà hưởng tết ta Sinh kế gia đình phải xa nhà Hẹn cùng con cháu xuân tới nha. QUANG BỈNH ĐÓN XUÂN Tết đến rồi đây cũng ước mơ Hưởng xuân cảm hứng vài câu thơ Lạy trời mạnh khỏe thân tâm niệm Cầu phúc tổ tiên tôn kính thờ Gia đạo thân bằng đều phát lộc Năm Canh Tý đến phước thiên cơ Bạn bè chúc thọ cùng thăm hỏi Thi hữu xa gần bạn cũng chờ. QUANG BỈNH 2019 TẾT Tết đến rồi xúng xính đi chơi thanh thản nghỉ ngơi Thấy vui là tết. LÊ MINH CHỬ VÔ ĐỀ Bề ngoài hào nhoáng lên đời Ai nấy đều tưởng là thời hoàng kim * Chạy theo thành tích, khát khao Nội dung rỗng tuếch thì sao vững bền * Những kẻ thích nói, thích nghe Thích phô trương để tự khoe chính mình * Lần tìm về với thảnh thơi Để được sống chậm cuộc đời thân yêu. LÊ MINH CHỬ NGÀY XUÂN Ngày xuân nắng ấm chiếu bao la Ngọn gió nồng thơm trải ngọc ngà Bóng dáng em thơ vàng trước ngõ Lư hương ngũ quả sáng trưng nhà Tâm hồn mãn nguyện đầy màu sắc Hạnh phúc dâng tràn rộn tiếng ca Cầu chúc nhân sinh an lạc phước Chung vui ngày Tết thật chan hòa. Thanh Châu
VÀO XUÂN Tết đến bông hoa nở đẹp phường Mừng xuân hạnh phúc khắp quê hương Chim xanh ríu rít trên cành lá Bá tánh hân hoan mọi nẻo đường Đất nước hòa bình yên chánh nghiệp Non sông an lạc vững mười phương Đầu năm Ngũ Phúc lâm môn hội Kính chúc người đời vạn mến thương. Thanh Châu Chào cụ Fansipăng* Triệu năm trong mây trắng Bỗng bất ngờ hiện ra Chao ôi! Cụ trẻ quá Áo chàm xanh nõn nà Tưởng như Cụ có thể Khoác tay một bà Tây Phiên chợ tình, dạo bước Trong chờn vờn sương bay
Mời Cụ bắp ngô nướng Đâu đây tiếng khèn Mèo Nghe buồn từ đáy chén Mấy ngàn đời cô liêu Cụ lặng im như núi Núi lặng im như trời Sapa chiều lá muộn Phố đã vàng thu rơi...
Sapa 29-7-1997 Trần Nhuận Minh (*) Ngọn núi cao nhất Việt Nam ở Sapa. SALUTING OLD MR. FANSIPANG (1) A million years in the white clouds You suddenly appeared Oh dear! You look so young Your velvety blue indigo dress It seemed like you could Arm in arm with a French lady To go for a walk at the Love market Cruising amidst the flying mist
You are invited to taste the grilled corn Somewhere one hears the sound of the Meo’s pan-pipe
Feeling sad from the cup bottom In thousands of solitary lives... You’re silent as the mountains Mountains are silent like Heaven Sapa in an evening of late leaves Streets turned golden with the coming of the Fall...
Sapa 29.7.1997 Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn (1) The highest mountain in Vietnam, at Sapa. Nhân ngày giỗ 32 năm 6/1/1988 - 6/1/2020 TÁC PHẨM ĐẦU TAY & CUỘC ĐỜI của Nhạc sĩ HẢI LINH
Nhạc sĩ Hải Linh tên thật là Trần Văn Linh, ông sinh ngày 04/10/1920, trong một gia đình Công giáo ở Ninh Bình. Vì trùng với ngày lễ kính thánh Phanxicô Assisi nên ông có tên thánh là Phanxicô Assisi. Trong cuộc đời mình, ngoài 2 bút danh thường dùng là Hải Linh, Minh Đệ, ông còn dùng nhiều tên khác như Phanxico Assisi Trần Văn Đệ, Trần Văn Trị. Thuở nhỏ, ông theo học ở trường Thử ở Trung Linh (Nam Định). Năm 16 tuổi, ông vào học ở Tiểu chủng viện Ninh Cường phụ trách việc tập hát và đệm đàn cho nhà thờ. Đến năm 18 tuổi, ông học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và sau đó được giữ lại để dạy Pháp văn và âm nhạc tại trường. Thời gian này, ông bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời… 1. Tác phẩm đầu tay Tác phẩm đầu tay của tác giả Hải Linh là bài thánh ca “Mẹ Ơi Đoái Thương Xem Nước Việt Nam”, sáng tác vào khoảng 1944, sau năm 1975 được thêm vào ba đoạn kế tiếp. Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam Trời u ám chiến tranh điêu tàn Mẹ hãy giơ tay ban phước bình an Cho Việt Nam qua phút nguy nan. Mẹ ơi đoái thương quê hương Việt Nam Trời u ám bất công lan tràn Một bóng đơn côi áo khăn mỏng manh Giữa đại dương tan nát băng trinh.
Đàn con nhớ thương quê hương lòng đau Sầu non nước tháng năm bạc đầu Từng bước ly hương xót xa dời nhau Mắt lệ rơi trên khắp năm châu. Mẹ ơi đoái thương chúng dân sầu đau Mẹ ban phước thánh ơn nhiệm mầu Tổ quốc thân yêu qua cơn bể dâu Nước Việt Nam giông bão tan mau.
Ai cũng thuộc phần đầu của bài hát này nhất là trước 1975 khi đất nước đang còn chiến tranh. Mọi người cùng cất lên sau khi thánh lễ đã kết thúc. Cùng cầu mong Mẹ hãy giơ tay ban phúc lành cho muôn người được hưởng sự bình an… 2. Tác phẩm “bất hủ” Mùa Giáng Sinh năm 1945, khi đi qua tòa soạn báo “Đường Sống” ở Nam Định, Hải Linh được ông Minh Châu - chủ nhiệm tờ báo - thách đố việc sáng tác nhanh một ca khúc về chủ đề Giáng sinh để đăng báo. Hải Linh nhận lời và hẹn 3 ngày sau trở lại. Đến hẹn, Hải Linh đưa bản nhạc “Hang Belem” tới tòa soạn và tập hát sơ qua cho một số nhân viên trong tòa soạn. Khi hát lên, mọi người thấy thích quá nên ông Minh Châu thương lượng rằng, ông sẽ chịu chi phí để lên Hà Nội thuê khắc nhạc vào bản gỗ để in vào 2000 bản báo Đường Sống sắp tới, sau đó, ông sẽ cho Hải Linh lại bản gỗ của bản nhạc. Hải Linh đồng ý cho nên, phần tên tác giả của bài hát này thường được viết kép là: Hải Linh - Minh Châu. Lúc ấy, bài hát cũng được in riêng ra 500 bản để bán với giá khoảng 3 hào. Hải Linh gửi lên Hà Nội 10 bản. Một số nhà thờ tại đây sử dụng, nhiều người thấy hay nhưng không tìm đâu ra bản nhạc. Một linh mục tên là Kim Định đã mua một bản danh dự với giá 100 đồng. Hải Linh cũng đem theo một bản nhạc về Phát Diệm. Đêm vọng Lễ Giáng Sinh, chính tác giả điều khiển Hội Ca Vịnh Nhà thờ chính tòa Phát Diệm hợp xướng bản Hang Belem này. Sau đêm ra mắt đầu tiên của tác phẩm, Cha Giám đốc Đại chủng viện là Lm. Phạm Ngọc Chi đã khen ngợi, và từ đó lưu tâm khuyến khích Hải Linh học hỏi và sáng tác thêm. Sau này, khi làm Giám mục địa phận, chính Ngài đã gửi Hải Linh đi du học về âm nhạc. 3. Sự nghiệp Năm 1950, ông được gửi đi Roma, học khoảng 7 tháng tại Pontifical de Rome (Ý), ở Nhà Quản lý Phát Diệm (Foyer de Phát Diệm) do cha Luca Trần Văn Huy đứng đầu, nhưng sau vì một số bất tiện cho việc học tập, nên đổi qua Pháp ở với cha Lương Kim Định tại căn nhà số 21 Rue Beaurepaire, Paris X. Từ 1-5-1951 học nhạc Bình Ca và Ca Trưởng tại Viện Giáo Nhạc (Institut Grégorien de Paris) thuộc Institut Catholique de Paris (Học Viện Công Giáo Paris), đồng thời học sáng tác tại Trường Nhạc CÉSAR FRANCK do giáo sư Guy de Lioncourt làm giám đốc và trực tiếp hướng dẫn Hải Linh. Ông tốt nghiệp hạng ưu năm 1956 tại đây với luận án “La Couleur Vietnamienne dans le chant Grégorien”. Chính Giáo sư đã thổ lộ, theo lời kể của Cố Lm. Nhạc sĩ Hoàng Kim: “Trong suốt cuộc đời dạy học của tôi, tôi chỉ gặp được 2 người có tài, một người Nhật, là Kishio Hirao, làm trưởng ban nhạc Đài Phát thanh Tokyo, Nhật Bản, và người thứ hai là Phanxicô Hải Linh”. Năm 1956, ông trở về Việt Nam, dạy hợp ca tại Viện Quốc gia âm nhạc. Ông cũng thành lập Ca đoàn Hồn Nước nhằm thực hiện hoài bão của mình là trình tấu sống động các tác phẩm được soạn ra bằng một lối viết thoáng mỏng theo tinh thần Á Đông. Năm 1961, ông nhận được học bổng sang nghiên cứu âm nhạc, giáo dục tại Đại học Ohio (Hoa Kỳ). Từ năm 1970 đến năm 1975, ông dạy nhạc tại Đại học Đà Lạt và tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc. Từ năm 1973 đến đầu năm 1975, ông làm Phân khoa trưởng của Phân khoa Âm nhạc Viện Đại học Đà Lạt. Sau năm 1975, ông không tham gia các hoạt động âm nhạc công khai dù vẫn sáng tác và dạy nhạc trong cộng đồng Công giáo tại Việt Nam. Ông đã hướng dẫn 2 lớp ca trưởng tại nhà thờ Huyện Sỹ, đường Bùi Chu, quận 1, cho đến khi đi xuất cảnh sang Hoa Kỳ. Ngày 8 tháng 5 năm 1986, ông xuất cảnh theo diện đoàn tụ gia đình. Tại Mỹ, ông trở lại hoạt động âm nhạc trong cộng đồng người Việt tại Mỹ với việc mở các lớp Ca trưởng ở nhiều Tiểu bang khác nhau (New Orleans (LA), California, Portland (Oregon), Missouri, Texas…); đồng thời, tập luyện cho nhiều ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong nhiều dịp lễ. Ông qua đời ngày 06 tháng 01 năm 1988 tại bệnh viện Fountain Valley, Los Angeles vì một cơn nhồi máu cơ tim. 4. Đánh giá Đánh giá về sự nghiệp sáng tác của Nhạc sĩ Hải Linh: - Linh mục An-rê Đỗ Xuân Quế, nguyên Trưởng ban Thánh nhạc Giáo phận Sài Gòn nhận xét: “Nhạc sĩ Hải Linh là người có thực tài và đã đem tài năng ra để phụng sự nền Thánh nhạc trong suốt đời Ông, đặc biệt trong ba thập niên 40, 50 và 60 lúc nền Thánh nhạc Việt Nam còn trong giai đoạn khai sáng. Ông là một trong những người có công đầu trong giai đoạn khai sáng ấy và đã đào tạo được một số môn đệ sáng tác ca khúc và điều khiển ca đoàn giỏi tiếp tục nối nghiệp ông” . - Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê nhận xét về ông: Hải Linh đã học nhiều điều trong dân ca và đem ra áp dụng trong nhạc Công giáo, tức Thánh ca, rất thành công vì có được màu sắc dân tộc - Nhạc sĩ Phạm Duy đánh giá những tác phẩm tiêu biểu của ông là những “Viên Ngọc quý giá nhất của Dân tộc Việt”. Lời kết - Bài hát đầu tay của Nhạc sĩ Hải Linh: “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam” (1944) là lời cầu khẩn thiết, van xin khi cuộc chiến tranh tàn khốc xảy đến. Mọi người chỉ biết van xin Mẹ nhân lành ban phúc bình an cho con dân Việt Nam qua giờ phút nguy nan. - Bài hát “Hang Belem” (1945) đã trở thành “bất hủ” trong lòng những người Công giáo. Như lời nhận xét của Lm. Kim Long: “Có thể nói đêm Giáng sinh mà không hát “Hang Bê Lem” của Hải Linh thì thấy thiếu một cái gì đó, vì nó có âm hưởng riêng và nó diễn tả được tâm tình của con người phải có khi đón chờ Chúa, gặp gỡ Chúa trong đêm hồng phúc”. HÀ MẠNH ĐOÀN Tổng hợp từ Internet
Lớp Ca trưởng 1978
Phụ Bản III LIỆU PHÁP HƯỚNG DẪN BỆNH NHÂN NHỚ LẠI KIẾP TRƯỚC (PAST LIFE THERAPY) Giáo Sư HAZEL DENNING (tiếp theo số 163) Vicki Mackenzie : Có ai tỏ ra có mặc cảm tội lỗi khi nhìn thấy những việc xấu họ đã làm trong những đời trước? Hazel Denning : Không hẳn như thế sau khi họ hiểu mục đích của sự tái sanh và duyên nghiệp. Tôi giải thích cho họ thấy rằng những chuyện xảy ra trong quá khứ không quan trọng mấy. Quan trọng chăng là những gì mình học hỏi được từ những biến cố ấy, và dường như đây mới là nguyên tắc căn bản. Có một trường hợp rất lạ lùng. Một bệnh nhân vừa bước vào phòng mạch là ngồi phịch xuống ghế, đấm mạnh hai tay vào thành ghế và la lớn: “Tôi ghét Chúa! Jesus Christ là một kẻ lừa đảo! Tôi đã cố gắng làm hết mọi thứ, đã đi tìm thầy chuyên môn, đã học hết Kinh Thánh mà vẫn không thay đổi gì được cuộc sống của tôi. Tôi khổ quá!” Bà gặp toàn chuyện xui. Rờ tới cái gì thì hỏng cái đó mặc dù bà là một người có khả năng xuất chúng. Sự nghiệp làm ăn bà gây dựng nên tưởng như thành công, cuối cùng cái gì cũng thất bại. Đường chồng con cũng xấu. Tuổi còn trẻ mà trông như một bà già. Bác sĩ nói cơ thể của bà già trước tuổi đến hai chục năm. Khi được hướng dẫn trở về kiếp trước thì thấy bà là một hồng y trong Tòa Án Dị Giáo (The Inquisition) do giáo hội La Mã Thiên Chúa chủ trì để trị tội những người ngoại đạo. Sự việc này làm đức hồng y (tiền thân của bà) rất đau khổ. Ngài biết trị tội những người ngoại đạo là sai lầm, nhưng đó là việc giáo hội muốn làm. Khi được hỏi tại sao bà trở thành công cụ chính trong Tòa Án Dị Giáo thì bà buột miệng nói rằng: “Đó là để cải tổ lại giáo hội vì giáo hội thời ấy quá hủ hóa, và tôi được giao trọng trách này”. Qua những chuyện tương tự, tôi thấy rằng những việc làm khủng khiếp đều có mục đích riêng. Vicki Mackenzie : Đứng trên góc độ này, nghiệp báo trở nên khúc mắc, ly kỳ khó hiểu, phải không thưa bà? Vì nếu quan niệm những kẻ phạm tội ác chỉ là những công cụ giúp người kia trả nghiệp thì họ đâu có tội lỗi gì? Hazel Denning : Thật ra thì cũng khó nói lắm. Trùng trùng duyên khởi, cái nọ xọ cái kia, khó mà giải thích chữ nghiệp một cách rốt ráo. Mọi vật hiện hữu trên đời đều phụ thuộc tương tác lẫn nhau, chúng nương nhau mà phát triển bất tận. Nói một cách giản dị, có thể lấy ví dụ của một người chỉ thấy hạnh phúc trong sự đau khổ (masochist) có thể thỏa mãn nhu cầu của một người chỉ thấy vui sướng trên sự đau khổ của kẻ khác (sadist). Hai loại người này nương tựa vào nhau mà sống. Không có cái gì xấu hoàn toàn. Mỗi kinh nghiệm là một bài học. Ta có thể là thủ phạm làm điều ác trong một kiếp nào đó nhưng cũng có thể là nạn nhân trong một kiếp khác. Và cứ như thế, con người sống từ đời này qua đời khác cho đến khi nào họ học được bài học. Tôi tin rằng chính chúng ta tự chọn con đường mình đi, dễ dàng hay chông gai là cũng do mình. Một khi mình nhận chân được sự thật đó và chấp nhận mục đích của đời sống hiện tại thì hoàn cảnh chung quanh có thể thay đổi. Nếu một người biết nhận trách nhiệm của mình thì người đó có thể giải quyết được nhiều vấn đề. Còn những kẻ ngu muội không biết nhận trách nhiệm của mình mà cứ đổ lỗi cho người khác thì họ chưa sẵn sàng thay đổi. Chúng tôi, bác sĩ chuyên môn, phải thấy và biết rõ điểm này. Khi đạt đến mức tỉnh thức tối thượng thì linh hồn (the soul) tự dưng hiểu thấu mọi lẽ - hiểu được mình là ai, tại sao mình hiện hữu ở đây; thấy những gì mình đã làm trong kiếp trước, và những gì mình sẽ làm về sau này vân vân và vân vân. Nhưng chính cá nhân người đó phải tự mình học hỏi. Và tôi cũng không hiểu lý do tại sao chúng ta phải học hỏi nhiều quá như vậy, nhưng tôi không phải là người tạo ra những quy luật ấy mà chỉ tìm cách phân tích lý giải chúng thôi. Có người thật sự không muốn thay đổi hoàn cảnh không mấy tốt đẹp của mình như chuyện một bà nọ sinh ra với hai con mắt gần như mù. Bà phải đeo mắt kiếng dầy cộm. Sau khi soi căn, bà biết rằng chính bà muốn mắt mình như thế để ít thấy những phù du vật chất, để quên cái ngã của mình, để quay nhìn vào bên trong. Từ đó, bà vui vẻ với cặp mắt gần như mù của mình và không chịu tìm cách làm cho mắt sáng hơn. Vicki Mackenzie : Bà có thấy ai chọn trở về gần gũi với những người họ quen biết từ nhiều kiếp trước không? Hazel Denning : Có, Nhưng vai vế thì thay đổi. Có người tái sanh với nhau để giải quyết nhiều vấn đề còn dang dở. Có người muốn trở lại để giúp đỡ những người thân. Tôi cho rằng các thánh tử đạo, hay những người chọn cái chết vì chính nghĩa là họ tự nguyện làm như vậy để thức tỉnh lương tri của nhân loại. Cho nên nói rằng nghiệp báo chỉ thể hiện như một sự trừng phạt thì không đúng, cũng có nghiệp dữ, nghiệp lành. Đó là luật nhân quả. Tôi có quen biết một bà bác sĩ, một người đàn bà rất dễ thương mà lấy một ông chồng dễ ghét nhất trần gian. Khi nào ông cũng mè nheo, gắt gỏng, độc ác mà chính ông không cố tình độc ác. Dần dần, bà chán nản không còn thương chồng nữa. Nhưng không bao giờ bà có ý định ly dị. Một hôm bà đến xin soi căn và thấy rằng bà đã gặp ông này ở một kiếp trước khi ông là một linh hồn lạc lõng. Bà hứa kiếp sau sẽ lấy ông làm chồng và sẽ giúp ông tìm lại linh hồn mình. Và sau đó thì bà thay đổi thái độ, thật tình yêu thương ông, dịu dàng kiên nhẫn với ông và chỉ một năm sau thì ông cũng đổi tính. Ông đi nhà thờ với bà, ông lái chiếc xe sport màu đỏ rong chơi khắp phố phường. Ông nói năng vui vẻ, hài hước ai cũng thích. Tôi dùng câu chuyện này để khuyên răn những gia đình có chồng nghiện rượu. Tuy người vợ tha thứ sự nghiện ngập của chồng nhưng tình cảm đối với chồng thì đã sứt mẻ. Tôi nói với họ rằng: “Nếu chị thật tình thương yêu và muốn cải hóa chồng thì chị không nên dùng giọng lời gay gắt với chồng mà nên bộc lộ tình thương, ăn nói dịu dàng thì ông sẽ thay đổi”. Có nhiều bà nghe lời và đã thành công. Vicki Mackenzie : Bà cho biết sau khi chết, hồn có một thời gian nhất định để đi đầu thai không? Hazel Denning : Có người tái sanh trong vòng vài tiếng đồng hồ sau khi chết, nhất là lính tráng chết ngoài trận mạc. Họ không chịu được cảnh hồn họ lang thang. Họ muốn nhập xác liền. Có lẽ lý do này giải thích được hiện tượng thiên hạ sinh đẻ nhiều sau những trận chiến tranh. Có nhiều người thì mấy trăm năm sau mới tái sanh. Có nhiều linh hồn từ thời Atlantean Age mà bây giờ mới trở lại trần gian. Có lẽ họ chờ đúng thời cơ để đem những hiểu biết mới giúp cho sự chuyển tiếp qua thời đại mới. (New Age). Vicki Mackenzie : Có khi nào bà đã gặp những người đã từng sống ở hành tinh khác hay cõi giới khác không? Hazel Denning : Thỉnh thoảng cũng có. Rất nhiều người cho rằng hạ giới là hành tinh thấp nhất trên cột luân hồi (the totem pole). Có mấy người nói rằng trước kia họ sống trên một hành tinh khác. Có một ông viết một thứ chữ lạ hoắc rồi dịch lại tiếng Anh. Ông nói hành tinh ấy có một văn hóa khác hẳn. Ông còn nói khi ấy ông hiểu được “ nguyên lý đồng thời” - hiện tại, quá khứ và vị lai đều đang thể hiện ở giây phút này. Thật là khó hiểu. Vicki Mackenzie : Bà có biết những kiếp trước của bà không? Hazel Denning : Có chứ. Đời trước kiếp này của tôi rất lạnh lẽo. Tôi là một phụ nữ sinh ra ở nước Anh, lấy chồng là một người làm ngoại giao giàu có, nhà cao cửa lớn, có nhiều gia nhân hầu hạ, tiệc tùng liên miên nhưng tôi rất cô đơn, sống không có tình thương. Khi gần chết, tôi còn nhớ gia nhân rón rén bước không dám gây tiếng động, tôi đã nắm tay em gái tôi và nói rằng, “Nếu chị được sống lại từ đầu, chị sẽ thương yêu nhiều hơn”. Và trong đời này, một em gái tôi chết lúc chín tuổi, tôi mới mười một tuổi. Tôi đã thương khóc em trong hai năm. Tôi cần có kinh nghiệm xuyên qua sự đau khổ như vậy mới lấy lại được cảm xúc bình thường. Nhưng kỷ niệm khó quên nhất xảy ra lúc tôi đang ở trong phòng tắm. Tôi bị đau gan từ lúc học lớp tám. Tôi hay bị những cơn đau túi mật hành hạ, đau đầu đến buồn nôn làm tôi khổ sở lắm. Hồi trước tôi cũng hay nóng nảy. Có hôm cơn giận nổi lên khiến hai mạch máu nhỏ ở cổ bị đứt. Có nhiều lúc tôi có cảm tưởng như cơn giận làm chóp đầu của tôi có thể bay đi mất. Nhưng không ai biết vì tôi không để lộ ra ngoài. Cách đây chừng mười năm, một hôm tôi đang tắm dưới một vòi sen thì cơn nhức đầu kéo tới. Tôi dằn giọng nói lớn: “Chúa ơi, tôi muốn biết tại sao tôi bị bệnh gan hành hạ, tại sao tôi phải chịu đau khổ như thế này?” Vừa dứt lời bỗng nhiên tôi thấy mình là một người lính theo Thập Tự Chinh thời Trung Cổ, vừa bị một giáo xuyên qua gan. Tôi tức giận sắp phải chết vì một “chính nghĩa” mà tôi không còn tin tưởng nữa. Tôi chán ghét những việc chúng tôi đang làm - đốt phá những đền đài đẹp đẽ - nhưng tôi không làm gì được hơn. Tôi biết tôi sắp chết và sẽ không bao giờ thấy lại được người vợ và hai đứa con trai. Tôi chết trong giận dữ, và chứng đau gan bây giờ là sự biểu lộ của cơn giận xa xưa ấy. Giây phút ấy trong phòng tắm, tôi nghe một giọng thì thầm: “Nguyên do của tính nóng giận của ngươi bắt nguồn ở đây”. Từ ngày đó, tôi không bị cơn đau túi mật hành hạ nữa. Vicki Mackenzie : Biết được kiếp trước của mình có lợi ích gì trong kiếp sống hiện tại không? Hazel Denning : Những hiểu biết về kiếp trước kiếp sau giúp tôi sống an nhiên tự tại. Đối với tôi, thế giới kia cũng rất thật như thế giới này. Cho nên khi mẹ tôi mất, rồi chồng và con trai lần lượt qua đời, tôi không đau buồn mấy. Ngày con tôi tử nạn xe mô tô, tôi vẫn tiếp tục đi thuyết giảng tại một trường đại học đã được sắp đặt trước. Khi biết ra, một giáo sư ở trường hỏi sao tôi có thể dửng dưng trước cái chết của con như vậy. Tôi đã trả lời rằng đối với người ngoài thì tai nạn ấy là một thảm cảnh, nhưng đối với tôi thì khác. Tôi biết con tôi là thầy tu trong ba kiếp trước. Trở lại lần này là cậu muốn nếm mùi đời. Cậu sống mau, sống vội, bất chấp nguy hiểm. Tôi biết con trai tôi không muốn kéo dài đời sống như vậy và cậu quyết định rời bỏ cõi trần sớm trước khi chuyện gì xấu có thể xảy ra. Tuy tôi thương tiếc con, và cũng như những bà mẹ khác, tôi vẫn mong được thấy ngày con khôn lớn, nên người v.v... nhưng trong thâm tâm, tôi mừng cho con đã giải thoát vì tôi biết con tôi sống trong đau khổ. Trường hợp chồng tôi cũng thế. Một buổi sáng đang chơi tennis, ông gục chết trên sân cỏ. Sau khi được tin, tôi vào phòng đọc sách gọi điện thoại báo tin cho gia đình và bỗng dưng một cảm xúc kỳ diệu chưa từng có đã đến với tôi. Căn phòng như sáng hơn và ấm áp hơn. Lông măng trên hai tay tôi dựng đứng hết và tôi cảm thấy được an ủi, khích lệ và sung sướng lạ lùng dường như được ôm ấp bởi tình yêu của nhà tôi, khi ấy tôi nghe tiếng ông thầm thì: “Em ơi, anh sung sướng được ra đi như ý muốn”. Tối hôm ấy tôi vẫn đi dự buổi họp ở trường. Tan họp, tôi mới báo cho mọi người biết tin và ai cũng xúc động thương tiếc làm tôi phải đi an ủi từng người. Khi người thân qua đời thì đau buồn là chuyện thường tình, nhưng tôi không chịu được cảnh người ta tỏ ra bi thương thái quá, vì như vậy chứng tỏ họ có mặc cảm tội lỗi gì với người chết. Vicki Mackenzie : Theo như bà nói thì mọi chuyện xảy ra đều có lý do? Và cuối cùng thì cũng đưa đến sự tốt đẹp? Hazel Denning : Đúng thế... Tôi cho rằng con người được sinh ra với một trí tuệ sáng tạo vô bờ mà chúng ta đã ngu muội không thông hiểu, đã phá hoại và lãng quên những khả năng ấy. Thời đại này là thời đại chúng ta có thể trở về với bản năng chân thật của chúng ta. Cũng giống như những mẫu đối thoại với các vị “gurus” Tây phương khác về luân hồi, buổi nói chuyện với Dr.Denning thật là hứng thú. Những điều tôi học được ở bà cũng như ở nhiều nhà chuyên môn khác về kiếp trước kiếp sau cũng không khác những điều tôi đã được nghe mấy Lạt Ma của phương Đông giảng dạy. Chi tiết về trường hợp tái sanh có thể khác nhau nhưng chân lý thì chỉ có một, là chân lý mà Lama Yeshe và Lama Zopa đã nói cho chúng tôi nghe trong chiếc lều trên sườn núi của Kopan rằng sau khi chết sẽ có một đời sống khác; rằng đời sống kế tiếp như thế nào là do nghiệp báo của bao đời trước quyết định; rằng trạng thái tâm thần khi hấp hối đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến đời sau; rằng người ta thường trở lại sống với những người có nghiệp duyên với chúng ta; rằng những đau khổ của đời này là chính chúng ta tạo ra v.v... Không nên oán ai, đổ lỗi cho ai vì chính mình vẫn luôn luôn làm chủ đời mình. HOÀNG KIM THƯ st. ĂN TRÁI CÂY KHI BỤNG RỖNG... Gần đây, tỷ lệ thành công của tôi trong việc điều trị ung thư là khoảng 80%. Bệnh nhân ung thư lẽ ra không phải chết. Cách điều trị ung thư đã được tìm ra, chỉ là chúng ta có tin hay không. Tôi rất tiếc về việc hàng trăm bệnh nhân ung thư đã chết theo cách chữa trị truyền thống Xin cám ơn và cầu Thượng Ðế gia hộ. Tất cả chúng ta cho rằng ăn trái cây chỉ có nghĩa là mua trái cây, cắt ra từng lát và bỏ vào miệng, nhưng không dễ như vậy. Ðiều quan trọng là phải biết ăn ra sao và khi nào. Ăn trái cây như thế nào mới đúng? Không ăn trái cây sau bữa ăn. Nên ăn trái cây khi bụng trống. Nếu ăn theo cách này, trái cây sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tẩy uế cơ thể, cho quý vị năng lực để chữa béo phì và những hoạt động khác. Trái cây là thức ăn quan trọng nhất ! Thí dụ quý vị ăn hai lát bánh mì, rồi một lát trái cây. Lát trái cây đã sẵn sàng đi thẳng qua bao tử, rồi vào ruột, nhưng bị ngăn cản. Trong khi đó, toàn thể bữa ăn bị thối rữa, lên men, và biến thành axít. Khi trái cây gặp thức ăn trong bao tử và chất axít tiêu hóa, tất cả thức ăn bắt đầu thối rữa. Vậy hãy ăn trái cây khi bụng trống, hoặc trước bữa ăn! Quý vị đã nghe nhiều người than rằng - mỗi lần ăn dưa hấu, tôi bị ợ; khi ăn sầu riêng, tôi bị sình bụng; khi ăn chuối, tôi cảm thấy muốn đi nhà vệ sinh v.v... Thật ra tất cả những điều này sẽ không xảy ra nếu quý vị ăn trái cây khi bụng trống. Trái cây hòa với những thức ăn thối rữa, sẽ tạo nên hơi gas, và làm quý vị bị sình bụng. Những việc như tóc bạc, hói đầu, tư tưởng bực bội, và bên dưới mắt bị quầng đen sẽ không xảy ra nếu quý vị ăn trái cây khi bụng trống. Không có chuyện vài thứ trái cây như cam và chanh có nhiều chất axít, bởi vì tất cả trái cây trở thành chất kiềm (alkaline) trong cơ thể, theo bác sĩ Herbert Shelton, nguời đã nghiên cứu vấn đề này. Nếu quý vị nắm vững việc ăn trái cây đúng cách, quý vị sẽ có được bí mật của sắc đẹp, trường thọ, sức khỏe, năng lực, hạnh phúc và không béo phì. Khi cần uống nước trái cây - hãy uống nước trái cây tươi, không uống từ đồ hộp. Không uống nước trái cây đã nấu ấm. Không ăn trái cây đã nấu chín, bởi vì quý vị sẽ không có những chất dinh dưỡng, mà chỉ thưởng thức hương vị của trái cây. Nấu chín làm mất tất cả sinh tố. Nhưng ăn trái cây vẫn tốt hơn là uống nước trái cây. Nếu quý vị phải uống nước trái cây, hãy uống từng ngụm, từ từ, bởi vì cần để nước trái cây hòa tan với nước bọt trước khi nuốt xuống. (Phép dưỡng sinh Osawa cũng khuyên phải nhai cơm gạo nứt 100 lần trước khi nuốt, để gạo hòa với nước bọt). Quý vị có thể chỉ ăn trái cây trong 3 ngày để thanh lọc cơ thể. Chỉ ăn trái cây và uống nước trái cây trong suốt 3 ngày, và quý vị sẽ ngạc nhiên khi bạn bè cho biết quý vị nhìn thật tươi sáng! Quả KIWI: Nhỏ mà rất mạnh. Có đủ các sinh tố potassium, magnesium, vitamin E & chất sợi. Lượng sinh tố C gấp 2 lần trái cam. TÁO: Ăn một trái táo mỗi ngày, không cần đến bác sĩ? Dù táo có lượng sinh tố C thấp, nhưng có tính chống oxít hóa & flavonoids để giúp sự hoạt động của sinh tố C, do đó giúp hạ tỷ lệ ung thư ruột già, nhồi máu cơ tim và đứt mạch máu O. DÂU TÂY: là loại trái cây bảo vệ. Dâu tây có tánh chống axít hóa cao nhất trong số các loại trái cây chính, bảo vệ cơ thể tránh ung thư, chống chất free radicals (gốc tự do) làm nghẽn mạch máu. CAM: Thuốc tiên. Ăn từ 2 đến 4 trái cam mỗi ngày giúp khỏi bị cảm cúm, hạ thấp cholesterol (mỡ trong máu), tránh và làm tan sạn thận cũng như là hạ thấp tỷ lệ ung thư ruột già. DƯA HẤU: Hạ nhiệt làm đỡ khát. Chứa 92% nước, và nhiều chất glutathione giúp hệ miễn nhiễm. Dưa hấu cũng có nhiều chất lycopene chống ung thư. Những chất dinh dưỡng khác trong dưa hấu là sinh tố C & Potassium (Kali). ỔI & ÐU ĐỦ đặc biệt là GẤC: hạng nhất về sinh tố C, chứa rất nhiều vitamin C. Ổi có nhiều chất sợi, giúp trị bón. Gấc có nhiều chất beta-carotene tốt cho mắt, ngoài ra Gấc còn là loại quả chứa hàm lượng cực cao Lycopene (cao gấp 70 lần cà chua) có tác dụng chống ung thư cực mạnh. Uống nước lạnh sau bữa ăn có thể bị ung thư? Chuyện khó tin?? Cho những ai thích uống nước đá lạnh, bài này dành cho quý vị. Uống nước đá lạnh sau bữa ăn thật khoái khẩu. Tuy nhiên, nước lạnh sẽ làm đông đặc những chất dầu mỡ mà quý vị vừa ăn xong. Sẽ làm chậm tiêu hóa. Khi chất “bùn quánh” này phản ứng với axít, nó sẽ phân nhỏ và được hấp thụ vào ruột nhanh hơn là thức ăn đặc. Nó sẽ đóng quanh ruột... Chẳng bao lâu, nó sẽ biến thành chất béo và đưa đến ung thư. Tốt nhất là ăn súp nóng hay uống nước ấm sau bữa ăn (Ðông y luôn khuyên nên uống nước ấm). Một điều nghiêm trọng về nhồi máu cơ tim: “thủ tục” nhồi máu cơ tim (Không phải chuyện đùa) Những quý vị nữ nên biết rằng, không phải tất cả những triệu chứng nhồi máu cơ tim đều bắt đầu từ việc tay trái bị đau. Hãy chú ý khi bị đau hàm dữ dội. Có thể quý vị sẽ không bao giờ bị đau ngực khi bị nhồi máu cơ tim. Buồn nôn và toát mồ hôi dữ dội cũng là những triệu chứng thường xảy ra. 60% những người bị nhồi máu cơ tim trong khi ngủ sẽ không thức giấc. Ðau hàm có thể khiến quý vị tỉnh dậy khi đang ngủ say. Hãy chú ý và để ý. Càng biết nhiều, chúng ta càng dễ sống sót. Một bác sĩ chuyên khoa tim cho biết, nếu mọi người nhận được bài viết này gửi tiếp cho 10 người khác, thì ít nhất một mạng người sẽ được cứu sống. Bác sĩ Stephen Mak Nguồn: Lối Sống Khoẻ - NCT st. TIỆC VUI Người phu xích lô kéo vội cái thắng xe, nhưng chẳng còn kịp nữa! Xe ông đã tông phải chiếc xe đạp của cô bé học trò. Cô ngã lăn cù xuống vệ đường, miệng xuýt xoa vì đau. Chiếc xe của cô chỏng trơ giữa mặt đường, cái bánh trước cong vẹo thành số tám. Ông nhảy vội xuống đường đỡ cô bé dậy, lúng túng hỏi: - Cháu có sao không? - Ơ! Không sao bác ơi. Cô nói thế, nhưng cái mặt nhăn nhó của cô tố cáo cô vừa nói dối… - Thôi, để bác chở cháu vào bệnh viện nhé. Mà cũng xin lỗi cháu… - Không phải tại bác đâu ạ! Tại cháu chạy hơi vội nên… mà chắc cháu không sao đâu! Người phu xích lô chợt nhớ chai dầu vợ ông hàng ngày để sẵn trong túi áo cho ông, phòng khi ông trái gió trở trời giữa đường. Ông lấy chai dầu khuynh diệp đã cạn một nửa. Cô bé vén cái quần dài lên đến gối, lộ ra vết thương ri rỉ máu. Cô đỡ lấy chai dầu, rồi xức vào đầu gối, miệng xuýt xoa… - Nếu vậy, để bác chở cháu về đến nhà nhé. Chứ xe cháu hư rồi, sao cháu đi được. Rồi hết bao nhiêu tiền sửa xe, bác sẽ bồi thường cho cháu. Nói thế, chứ ông làm gì đủ tiền mà bồi với chả thường. Khe khẽ thở dài cho cái ngày xui xiểm… Ông lại ân cần: - Thế nhà cháu ở đâu. Lên xe đi, rồi bác chở cả người lẫn xe về tận nhà… Đang còn ngần ngại, vì cô biết ông chẳng giàu có gì với cái nghề đạp xích lô. Để ông đền thì tội cho ông quá… Bỗng có ai đó xen vào: - Cho phép tôi giải quyết thế này nhé, ông bạn… Cả hai ngước lên. Kìa là một người đàn ông nom thật lịch sự. Ông nói tiếp: - Đàng nào cũng lỡ rồi. Đường sá chật chội thì chịu thôi. Tôi thấy cháu gái này cũng chỉ bị trầy xước tí chút, có lẽ cũng không sao. Tôi sẵn cái xe máy đây. Cháu lên cho bác chở về đến nhà. Còn anh chịu khó chở dùm cháu cái xe hư này về nhà cháu, rồi tìm tiệm sửa xe nào gần đó. Hết bao nhiêu cho tôi gửi nhé. Công anh chở về, cũng cho tôi được gửi cho vui… Người phu xe ú ớ, chẳng biết nói gì. Cô bé tròn xoe mắt nhìn người khách lạ. Thời buổi này mà vẫn có người tốt bụng đến thế ư! Ông khách lạ vỗ vào vai người phu xe: - Có đáng gì mà anh ngại. Tôi giúp anh, mai mốt anh giúp lại, lo gì… Thế là chiếc xe méo mó được hai người đàn ông khiêng lên, để ngang trên chiếc xích lô cà tàng… Người phu xích lô rối rít cảm ơn con người tốt bụng nọ. Chẳng những ông khách đã trả thế cho ông số tiền sửa xe, mà còn dúi vào túi ông xấp bạc chắc cũng kha khá, miệng cười giả lả: - Kệ! cho các cháu ăn quà. Ông lại còn vời thằng bé bán vé số, mua cho nó 10 tờ, rồi chia cho ông xích lô một nửa, cũng với cái giọng giả bộ hài: - Biết đâu trúng thì chia cho tôi nhé… *** - Mời bác vào nhà ạ! - Ừ Cô bé dắt người khách vào nhà. Căn nhà đơn sơ mà ngăn nắp. Cái tủ sách xếp lớp những quyển sách ngay ngắn không bám một gợn bụi nào. Có tiếng lẹp kẹp vọng ra. - Thế… Ông vào xơi nước ạ! Rồi một bà trông còn quắc thước hiện ra. Cặp kính làm bà thêm vẻ khả ái. Bà kéo ghế mời ông ngồi - Thế… Ông thật là người tử tế… - Dạ, có gì đâu bà ạ, cháu chỉ… - Thế… Cháu gái tôi đã kể hết cho tôi nghe rồi ông ạ. Thôi thì tôi chỉ biết cám ơn ông mà thôi. Mà ông cho tôi gửi tiền sửa xe và tiền công cho ông xích lô nữa… - Có bao nhiêu đâu bà ơi. Giúp các cháu để mai kia chúng giúp lại người khác là vui rồi. Bà cụ nghe câu này quen quen. Vì chính bà hay nói câu này lắm! - Thế… Ông ở có gần đây không ạ? - Dạ, cháu ở ngoài Sài gòn bà ạ. - Thế… Ông thấy ù cả tai! Thôi chết rồi! Ông nhớ ra cái giọng của bà rồi! Nhất là cái chữ “Thế” mà bà chêm vào mỗi đầu câu. Ông lén nhìn bà. Đúng thật là cô, cô gì nhỉ… Rồi như điện xẹt qua bộ não, ông nhớ ra… - Dạ, dạ thưa có phải là cô Thoa không ạ? Bà cụ há hốc mồm, tròn xoe mắt nhìn người đàn ông cũng đang mở to đôi mắt nhìn bà. Ông rú lên: - Thôi đúng là cô rồi cô ơi! - Ơ… - Con là Hùng “xiêu” đây cô ạ ! Bà vỗ vỗ mái tóc bạc rồi cặp mắt còn rất đẹp của bà làm như sáng hơn - Thế… Thế tôi nhớ ra rồi! Vậy là thầy trò họ nhận ra nhau như vậy đó! *** Hùng “xiêu” nhớ mãi câu chuyện cũ, câu chuyện cách nay đã hơn 30 năm. Dạo ấy, bố mẹ Hùng nghèo lắm. Hàng ngày, cậu phải mò ra lò bánh mì lấy bánh về cho mẹ bán. Trước đó, cậu còn phải dậy luộc thịt rồi thái ra sẵn cho mẹ. Cậu kiêm luôn vụ thái dưa, hành. Thậm chí rọc sẵn cả giấy gói bánh mì cho mẹ. Vừa thái thịt vừa ôn bài, có hôm lật bật làm đổ cả nước dưa chua ra vở, ố cả trang giấy làm văn, bị cô Thoa tế cho một trận nên thân. Nhưng khi biết hoàn cảnh của gia đình Hùng, cô lại đâm ra thương cậu bé ấy. Rồi cứ chiều đến, cậu lại cầm tiền mẹ đưa, đem ra trả cho chủ lò tiền bánh mì lấy ban sáng. Thường thì thế nào mẹ cũng dúi thêm cho cậu ít đồng ăn chè đậu đỏ bánh lọt. Nghĩ lại, mà Hùng “xiêu” còn nhớ cái cảm giác mát rượi khi nuốt từng thìa chè hấp dẫn… Có hôm, cậu làm rơi mất tiền. Sợ quá, khai thật thì mẹ sẽ la. Hùng không sợ mẹ la cho bằng thấy mẹ khổ vì số tiền đã mất sẽ làm bà thêm lo lắng khi đời sống gia đình đã quá đạm bạc. Cậu bèn khai thật với bà chủ lò. Rồi cậu hứa: - Cháu sẽ nhịn ăn chè để trả cho bác nhé, nhé bác… Nhìn cái dáng liêu xiêu của Hùng, bà vừa thương vừa tức cười : - Ừ! Thì vậy cũng được, nhưng nhớ trả cho nhanh nhé, kẻo tao hết vốn! - Mà bác cũng đừng cho mẹ cháu biết, tội mẹ cháu lắm bác ạ. Ngẫm nghĩ một chút rồi bà cũng “ừ” Được hai hôm thì xảy ra cớ sự. Một thằng thợ bánh mì lẻo mép đem chuyện bí mật ấy nói cho mẹ Hùng. Dĩ nhiên cậu chối bay chối biến, làm mẹ cũng bán tín bán nghi. Hôm sau, đến lượt thằng Dũng mất tiền. Tiền học bố mẹ cho, nó chưa kịp đóng cho văn phòng, kẹp trong quyển sách bỗng biến mất sau giờ ra chơi. Thằng Dũng bù lu bù loa trong lớp, khiến cô Thoa chẳng biết làm sao bèn dắt nó lên phòng Giám Thị. Lát sau, Thầy Long, gọi cả mấy đứa chung quanh lên, đứa nào đứa nấy tái mét cái mặt. Hùng thì vô can. Nó vẫn chăm chỉ làm bài. Nhưng sao mà tay nó cứ run như bị cảm lạnh vậy kìa. Cô Thoa lại gần nó, bàn tay hiền dịu của cô đặt lên cái trán lấm tấm mồ hôi của nó: - Thế… Em làm sao vậy? Hùng lúng búng, giọng nó run thấy rõ: - Dạ… dạ… em có làm sao đâu! Nó cố gắng lắm mới nuốt được nước bọt. Khỉ thật… Mấy đứa trở về lớp, mặt đứa nào cũng ràn rụa nước mắt. Thằng Dũng khóc như cha chết, vì nó sợ bị bố đánh. Mà bố đánh là ghê lắm, vì thằng Dũng có cái tật chơi bài, nó từng bị bố cho no đòn vì cái tội đáng nguyền rủa ấy. Không khéo, bố nó cứ nghĩ nó lại mụ mẫm vì 52 lá bài xanh xanh đỏ đỏ… Cô Thoa kéo nó lại gần, bảo: - Thế… Đừng nói gì với bố mẹ hết nhé! Hễ bố mẹ hỏi, thì bảo hôm nay phải làm bài lâu quá nên mai đóng, nghe chưa! Cô sẽ lo cho! Thằng Dũng chỉ còn biết hy vọng vào cô thôi nên khẽ gật đầu, miệng còn sụt sùi. Cuối giờ, cả lớp ra về. Cô gọi Hùng lại. Thằng nhỏ tái xanh: - Dạ… - Thế… Hôm nay em lạ lắm. Có chuyện gì thì nói cô nghe đi. Hùng nhìn vào mắt cô. Có cái gì thật nghiêm nghị, lại vừa van lơn. Nó thấy xúc động vô cùng. Cả cái thân xiêu xiêu của nó run bắn lên… - Thế… em lấy phải không? Nó òa khóc, rồi mếu máo gật đầu. Cô thở dài. Rồi cô ôm nó vào lòng. Cô biết nó là đứa học trò ngoan. Chẳng ai nghi nó cả, kể cả thằng Dũng. Chỉ có cô là biết trong lòng nó đang có cái gì ghê gớm mới xảy ra. Sau vài cái “Thế” của cô, thì mọi sự đã rõ ràng. Nó nhìn cô với đôi mắt hoang dại. Cô bóp chặt vai nó, rồi thong thả từng chữ: - Thế… Em phải ra nhà thờ xin lỗi Chúa. Rồi liệu mà lo xưng tội đi. Còn đây, cô cho em tiền để mai mà trả cho lò bánh mì, kẻo tội nghiệp mẹ nhé! - Dạ thôi… Cô quát lên: - Thế… Em có nghe cô không hả? Rồi cô dịu giọng: - Thế… Cô sẽ đem tiền ấy đưa cho Thày Giám Thị, nói là trò Dũng đánh rơi ở dưới bục giảng chứ làm sao. Thế… Cô chỉ nhắn nhủ em một điều, là cô làm việc này để giúp em, vì em có hoàn cảnh khó khăn. Thế… Và với điều kiện, em sẽ học hành giỏi giang để sau này giúp đỡ lại người khác. Thế… hiểu chưa? Lạy Chúa! Những chữ “Thế” của cô sao mà đầy mến thương… thế! Rồi cuộc đời cứ trôi đi như có sẵn một dòng chảy nào đó đã được lập trình sẵn. Kỷ niệm ấy đã làm Hùng mạnh mẽ tiến vào cuộc đời với tâm hồn trong sáng, với ánh mắt vừa nghiêm nghị vừa thương yêu của cô giáo năm nào. Học đường đã rời xa nhưng lòng Hùng vẫn đau đáu về hình ảnh cô giáo thân thương. Ngã rẽ của đất nước cũng là ngã rẽ của biết bao con người, trong đó có Hùng với những tháng năm phiêu dạt. Rồi dần dà, Hùng trở về đất cũ khi tóc đã nhuốm màu thời gian. Ông tìm lại bạn xưa dù chẳng còn mấy người. Ông đi qua ngôi trường năm xưa mà cái tên đã bị gỡ bỏ mà thay vào đó là một cái tên lạ hoắc. Nhưng dẫu sao, ông vẫn cảm thấy có cái gì đó ràng buộc với những viên phấn, những trang giấy học trò, và nhất là… Cô đã dời nhà đi đâu không biết, chỉ biết là cả đời cô cặm cụi với lũ học trò. Không chỉ với Hùng, mà cả với nhiều học trò thiếu thốn, cô luôn dạy thêm cho kiến thức học trò mình mở mang mà chẳng tơ tưởng gì đến những đồng tiền vô vị. Cô lý luận rằng, cô vốn xấu, nên cô chẳng lấy chồng chi cho khổ; Và ở một mình thì có cần gì nhiều đến tiền bạc mà ôm vào người cho nặng tâm hồn… Dòng chảy cuộc đời đôi khi trùng lắp. Những ngã rẽ một ngày nào đó rồi cũng gặp nhau. Chiếc xích lô đã đem ông về với kỷ niệm, với mến thương chẳng phai mờ. Cô kể về Ngọc, cháu cô. Nó mồ côi cả cha lẫn mẹ, khi song thân bị nghiền nát dưới chiếc xe oan nghiệt. Bố mẹ nó đều là học trò của cô. Thế nên, cô đem Ngọc về và lo lắng cho nó như con cháu trong nhà. Được cái, nó cũng biết thân biết phận mà nết na học hỏi. Hai bà cháu đã ở với nhau từ mươi năm rồi. Chẳng bao lâu sau, ông Hùng đến nhà bà giáo. - Chào cô! - Thế… Chào anh. Vào nhà đi! Ông chợt tức cười vì cái chữ “thế” truyền thống của bà giáo. Ôm bụm miệng, nhưng kẽ cười đã kịp lọt vào cái tai rất thính của bà. Bà phì cười: - Thế… Chết! tại cô quen rồi anh ạ. Ông chột dạ, lấp liếm: - Cô bảo gì ạ! - …Nếu mà ngày xưa, cô đã cho một roi vì cái tội trêu ngươi đấy nhé. Thế… Rồi bà cười, nụ cười giòn tan - Thế… Hm, có việc gì mà đến cô vậy. - Dạ, ngày 20.11 sắp tới, lũ bạn học con tổ chức tiệc vui để mời cô đến dự, để nói lên lòng biết ơn của trò xưa, cô đến dự nhé… - Thế… Cô bận việc hôm ấy rồi, làm sao đi được. Cô phải đại diện cho phụ huynh lớp con Ngọc mừng ngày Hiến Chương Nhà Giáo rồi. - Ơ! Tụi con tổ chức vào buổi tối cơ mà! - Thế… thì được. - Cô cho cả cháu Ngọc đến nữa nhé. Con sẽ nhờ người đến chở hai bà cháu đi cho tiện. - Thế… không cần đâu. Cô cũng có xe mà. Hai bà cháu sẽ có mặt đúng giờ đấy. - Cám ơn cô quá. Thế nào hôm ấy cũng sẽ rất vui… *** Vợ chồng ông Hùng dành cả cái sân lót đá để tổ chức ngày vui. Vợ ông tất bật từ sáng sớm. Bà nghe chồng kể rất nhiều lần về bà giáo của ông. Riết rồi bà cũng thấy mến người phụ nữ ấy, dù chưa bao giờ bà biết mặt. Bà vui lây với chồng khi thấy bạn bè của ông dập dìu đến nhà. Họ ôm chầm lấy nhau như tuổi còn thơ. Họ ôm cả bà nữa, khiến bà cảm thấy chính mình mới là bạn của họ. Ai cũng khen bà đẹp, làm cánh mũi bà vốn đã phập phồng vì mấy món ăn còn nghi ngút khói, giờ lại căng thêm ra. - Cô Thoa tới! Cô Thoa tới… Cả nhà nhao nhao lên. Kẻ thì dắt hộ cô cái xe. Ông Dũng thì… bế cả bà lên. Có mấy bà học trò cũ mắt đỏ hoe khi nhìn lại thầy mình ngày xưa. - Tụi mày phải để cô nghỉ cái đã. Ông Hùng la lớn, rồi ông ấn bà vào cái ghế chính giữa dãy bàn đã chưng đầy hoa, cùng các thức ăn hấp dẫn. Khi trật tự đã được vãn hồi. Ông Hùng trịnh trọng đứng lên: - Kính thưa cô, thưa… tụi mày và tất cả… Ô hay! Ông bật khóc. Vâng! Ông khóc mất rồi, vì xúc động quá thể. Thằng Dũng ngày xưa, ngồi kế bên ông phải cấu ông một cái thật đau mới làm cho ông hết sụt sùi. Ông gọi vợ lại đứng bên cạnh để… dựa hơi. Ông cám ơn cô giáo. Ông cười với mọi người. Rồi ông kể lại câu chuyện tiền nong hôm xưa. Miệng cười mà mắt ông đẫm lệ. Vợ ông ôm chặt lấy ông, nước mắt bà cũng trào ra trên đôi mắt đẹp. Ông Dũng cũng đứng lên, nghẹn ngào chẳng nói được gì. Bà giáo chỉ biết huơ huơ hai cái tay thừa thãi, lòng bà thổn thức. - Quên mất, xin lỗi cháu nhé. Hôm nay, tôi xin giới thiệu cháu Ngọc, là cháu của cô giáo cùng đến vui với chúng ta. Cô cũng cho phép con, các bạn cũng cho phép tôi được giới thiệu con trai tôi nhé. Việt ơi, ra đây con. Việt bước ra, lắp bắp: - Con chào bà, con chào các bác ạ! Rồi cậu giật mình, vì ai kia… Mà ai kia cũng giật mình không kém… Ngọc nhào lại phía Việt, cậu ú ớ: - Mai là Ngọc à? Bà giáo lên tiếng: - Đi học thì tên là Mai, về nhà thì tên Ngọc con à. Sao hai đứa con quen nhau? Hai đứa trẻ đồng thanh lên tiếng: - Tụi con là bạn học cùng lớp mà… Mọi người ồ lên hể hả, cứ như họ mới là nhân vật chính trong câu chuyện vừa chứng kiến. Bỗng Việt chạy vào nhà. Rồi cậu chạy ra, dúi vào tay Mai cái gì đấy.Cô nàng lại đẩy ra. Cù cưa mãi… Bà giáo hỏi Mai: - Gì đấy Ngọc ? - Dạ con trả tiền hôm nọ mượn của Mai để đổ xăng, vì đi học quên đem tiền, nay con trả mà Mai không chịu lấy bà ạ! - Thì hôm nay, Mai giúp Việt. Mai kia Việt giúp lại người khác chứ có gì mà khó đâu? Bà Mai dạy vậy đấy! Họ nhìn nhau. Rồi cùng nâng ly. Những ly bia óng ánh niềm vui. Những ánh mắt tràn đầy thân ái. Họ chẳng biết Việt và Mai đã lẩn đi từ lúc nào… LAM TRẦN 16.11.2014
Chuột vinh quy 10 LỢI ÍCH SỨC KHỎE TUYỆT VỜI TỪ RAU XÀ LÁCH Ăn rau xà lách không ngờ lại rất có nhiều lợi ích cho cơ thể. Không những vậy còn giú p hỗ trợ chữa các bệnh thông thường như táo bón, giảm cân, đẹp da, ngăn ngừa ung thư, cải thiện giấc ngủ,... Hãy bổ sung món rau dinh dưỡng này ngay trong bữa ăn của gia đình nhé! 1. Điều trị táo bón Là một kho cung cấp chất xơ, giàu cellulose nên xà lách còn giúp ruột có thêm chút gì để... co bóp, nhờ đó giúp thoát khỏi tình trạng táo bón. 2. Giảm cân, làm đẹp da Do hàm lượng nước cao và chứa các vitamin nên ăn xà lách còn giúp có một làn da tươi mát. Chị em muốn có làn da sạch, sáng mịn cũng chọn xà lách để xay nhuyễn, lấy nước cốt thoa mặt mỗi ngày. 3. Hỗ trợ ngăn ngừa ung thư Do có chứa nhiều beta-carotene nên xà lách giúp hỗ trợ ngăn ngừa ung thư, việc phòng tránh các bệnh tim mạch, thấp khớp, đục thủy tinh thể… 4. Giúp cơ thể tỉnh táo, xả stress Xà lách còn chứa rất nhiều muối khoáng, kiềm cùng một lượng khá cao magie, nhờ đó nó có thể giúp cho cơ thể tỉnh táo, giảm stress, tăng cường chức năng não và các mô cơ. 5.Giúp ngủ ngon Xà lách còn có một lợi ích khác là chăm sóc giấc ngủ vì chứa letucarium - một chất gây ngủ. Người La Mã và Hy Lạp cổ cũng từng sử dụng xà lách để giúp ngủ ngon. 6.Tốt cho người thiếu máu Chất sắt từ xà lách sẽ được cơ thể hấp thu tốt hơn nhiều so với những chế phẩm bổ sung sắt. Vì vậy, đây loại thực phẩm rất tốt cho người bị thiếu máu do thiếu sắt. 7. Tốt cho thị lực Beta-caroten được chuyển hóa thành vitamin A khi vào cơ thể, giúp duy trì thị lực tốt. 8. Tăng cường chức năng sinh lý Xà lách cũng là món ăn tốt cho giới mày râu vì có thể cải thiện tình trạng xuất tinh sớm. 9. Tốt cho bệnh nhân tiểu đường Đối với bệnh nhân tiểu đường, xà lách là một loại thực phẩm lý tưởng vì thuộc nhóm rau sống có thành phần carbohydrate thấp hơn 3%. 10. Giải nhiệt, giảm đau đầu Nước ép xà lách còn có tác dụng giải nhiệt. Ngoài ra dùng dịch ép xà lách pha với tinh dầu hoa hồng thoa vào trán và thái dương sẽ giúp cắt những cơn đau đầu Lưu ý : Rau xà lách thường để ăn sống hoặc xay sinh tố nên trước khi ăn phải rửa thật sạch và ngâm nước muối để loại bỏ sâu bệnh, vi khuẩn. Phùng Chí Tâm st.
GIAN HÀNG O ĐỒNG Như những mùa Giáng Sinh trước, cứ Noel đến là ca đoàn chúng tôi tích tụ hơi ấm dâng lên Chúa Hài Nhi bằng những hy sinh, những đóng góp, sau đó sẻ chia hơi ấm đó cho các em trên vùng cao: người thì tiền bạc, kẻ thì những đồ dùng dư xài nhưng còn tốt, tất cả đều chung tay đi mua sắm thêm và đóng gói… để có 300 phần quà gồm sách vở, mì gói, bánh kẹo, một cái áo ấm… cộng thêm một phiếu tham gia các trò chơi để lĩnh thuởng. Ngoài 5 gian hàng chơi đá banh, ném lon, phóng phi tiêu, ném bóng vào rổ,… chúng tôi còn có một gian dành cho các bé dưới 5 tuổi tô màu tranh nhận quà thưởng tự chọn: gấu bông, đồ chơi, bánh kẹo,… Có lên tận nơi mới thấy nơi đây không khí trong lành, con người thật thà, chất phác: xin vé thi thố đàng hoàng và nhận quà theo thành tích chứ cho cũng không thích, bố mẹ của các em còn bé cố vẽ cho con, hay cầm tay con tô màu cho xong mới chịu nhận giải thưởng. Một vài dì phước trẻ cũng xin tham gia để nhận gấu bông cho các cháu… Bắt chước Giáo xứ Tân Sa Châu-Sài gòn, lên trên Gx. La Vang-Bảo Lộc chúng tôi cũng làm thêm một gian hàng 0 đồng. Gian hàng vỏn vẹn trong 1 ba lô thôi nhưng rất nhiều món linh tinh: một số cây thước, vài cây compa, ít cục tẩy, chục cái chén nhựa, vài cục xà bông, một ít vòng đeo tay, một số móc khóa… khi bày ra được rao to: “Gian hàng 0 đồng đây, ai mua quẹo lựa dùm, mỗi người một món, đặc biệt không phải trả tiền”. Lúc đầu người lớn, trẻ em còn ngần ngại vì thấy là lạ, nhưng rồi sau khi đã có một ít người ghé vào thì số người ghé lại đông dần lên và thi nhau chọn lựa. Có những thanh niên chọn được một móc khóa, em bé gái chọn được một cái bóp thổ cẩm xinh xinh, hay em trai chọn được một chiếc compa để học, lại có một ông bố trẻ chọn một túi nhỏ có chiếc gương hình Mickey kèm theo chiếc lược xinh xắn cho con gái cưng của mình,… và sau khi đã bước ra thì ai nấy cũng đều vui thích với món hàng đã mua với giá 0 đồng. Có những phụ huynh thật thà xin thêm 1 món nữa, chúng tôi cũng đồng ý và khuyến khích lấy 2, 3 món cũng được nếu thực sự cần dùng và họ cảm ơn nhiệt tình. Mọi người cùng vui khi người bán và người mua đều ưng ý với những gì mình muốn. Gian hàng 0 đồng hết trước tiên, gian hàng trẻ em hết theo sau, rồi các gian hàng còn lại cũng lần lượt cháy hàng và cuối cùng là gian hàng đá banh vào gôn thật là sôi động, nên các phần quà của các gian hàng khác còn dư phải dồn hết vào đây, các em trai xin thêm vé để đá và lấy thưởng, thậm chí bộ đồ chơi phóng phi tiêu của gian hàng phóng phi tiêu cũng được mang ra làm giải đặc biệt để kết thúc tất cả các gian hàng luôn. Ánh nắng chói chang đã dần dần chiếu lên, ai ai cũng mồ hôi ướt đầm áo, cho dù sáng sớm sương xuống lạnh tái tê nhưng ai nấy đều vui. Điều thú vị nhất là chúng tôi đã nhận ra rằng: chúng tôi là những người đầu tiên được hưởng niềm vui chứ không phải là những cháu vùng sâu vùng xa. Được nhìn thấy những ánh mắt, những nụ cười, sự vui thích hài lòng của các em nhỏ và cả nơi cha mẹ các em chúng tôi tự nhủ lòng phải duy trì việc sẻ chia hơi ấm này. Các anh chị em biết hy sinh và dạy cho con cháu trong nhà sự chia sẻ cho những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình, biết đem niềm vui, đem hơi ấm vào hang đá của Hài Nhi Giêsu, biết chia sẻ tình thương cho người khác. Đồng thời cũng cho các cháu nhỏ lăng xăng phụ giúp người lớn chuẩn bị gian hàng: chuyển quà, căng bạt, thổi bong bóng, xếp quà; và nhất là cái vụ chạy đi lượm banh, lượm bóng mỗi khi khách hàng sút bay tận… trời, khâu này người lớn chúng tôi không làm xuể. Nhìn các cháu vui trong phục vụ chúng tôi thầm mãn nguyện: “Thế hệ kế tiếp sẽ là những cánh tay vươn dài hơn”. HOÀNG CHÚC
Phụ Bản IV SÁU LOẠI RAU QUẢ TẨY ĐỘC GAN 1. Bồ công anh 2. Rau cải cúc 3. Cà chua 4. Dưa leo 5. Dâu tây 6. Chanh, cam, bưởi, quýt. NĂM LOẠI NƯỚC UỐNG BẢO VỆ GAN, NGỪA UNG THƯ 1. Trà xanh 2. Cà phê 3. Gạo nứt 4. Đậu đen 5. Nước Nha đam (còn gọi là Lô hội) chữa mụn Nước ép củ cải đường làm mát gan, đẹp da. Gan được ví là nhà máy hóa chất của cơ thể Sống an nhiên của YouTube QUAN THÚY MAI st. BỐN MÙA TRONG ĐỜI Cuộc đời một con người cũng thay đổi như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông xoay vần, mỗi mùa khác nhau lại xảy ra những chuyện khác nhau. Mùa Xuân gieo hạt, mùa Hạ vun xới, mùa Thu hái quả, mùa Đông cất giữ. Người già như mùa Đông đang dần tới, mang theo sự lôi cuốn đặc biệt khác với ba mùa Xuân - Hạ - Thu. Hãy biết nắm giữ và triển hiện những vẻ đẹp mà mùa đông đang lưu giữ. Con người sau khi già đi hãy biết tự lượng sức mình, những việc quá sức thì đừng cố, làm xong mà chẳng có kết quả gì tốt đẹp thì đừng làm. Già rồi thì phải biết buông quyền, yên tâm về con cái mà dưỡng tâm mình, làm một người già vui vẻ, khỏe mạnh. Đặc biệt là đừng làm năm việc sau: Thứ nhất: Việc không làm Không làm việc vô nghĩa, không làm việc quá sức, không làm việc quá vất vả, không làm việc sau này sẽ khiến mình hối hận. Sau khi con người già đi thì phải học cách khuất phục số phận, nếu không bạn sẽ gặp nhiều rắc rối. Hãy học cách làm việc vừa sức, tự lượng sức mình. Thứ hai: Điều không nhìn Nhìn bằng hai mắt, chi bằng nhìn bằng một mắt, nhắm một mắt, mở một mắt sẽ tốt hơn. Chuyện gì cũng quá tính toán quá thông minh, ngược lại còn rước họa vào thân. Đừng chỉ nghĩ cách thay đổi người khác, mỗi người đều có cách sống của riêng mình. Con cháu có phúc của con cháu, ít quản chuyện phiếm là cách tuyệt vời nhất. Thứ ba: Việc không quản Dẫu thế giới này thiếu đi bất kỳ ai thì trái đất vẫn cứ quay, người khác vẫn cứ sống, mặt trời vẫn chiếu sáng mỗi ngày. Nên hãy nhớ kỹ rằng: Hãy để tâm tới sức khỏe của bản thân, để tâm tới niềm vui của bản thân, để tâm tới việc mình cần làm, để tâm tới bản thân mình là được rồi. Hãy chăm sóc tốt cho sức khỏe của mình, đừng làm phiền lụy đến gia đình, con cháu. Thứ tư: Điều không cho Sau khi già đi, nhất định phải giữ cho mình một chút vốn liếng. Những gì không thể chi trả thì đừng chi trả, không thể cho thì đừng cho. Cho càng ít con cháu càng hiền minh. Thứ gì cũng cung cấp đủ đày, con cháu chắc chắn sẽ chẳng biết làm gì, chỉ biết “há miệng chờ sung”. Chắc chắn chúng sẽ chỉ có thể sống một cuộc sống bình thường, thậm chí cùng khổ. Hãy để con cháu dưỡng thành thói quen tự lực cánh sinh. Thứ năm: Không chờ đợi Đợi nghỉ hưu, đợi tiền tiết kiệm, đợi con cái trưởng thành, đợi trả tiền nhà… Chúng ta cứ luôn chờ đợi, cuối cùng lại đợi đến khi cử hành lễ tiễn biệt của chính bản thân mình. Đời người ai cũng trải qua một lần, đừng quá lao tâm, con cháu chịu chút khổ mới có thể trưởng thành. Trước sau gì ai cũng phải rời đi, nhưng đừng tiếc nuối, những việc muốn làm thì đừng chờ đợi. Nhất định phải sống thật tốt và hưởng thụ cuộc sống mỗi ngày. KIM SƠN st. CHUYỆN VUI LOÀI VẬT Thay vì kể chuyện Chuột, con vật tượng trưng của năm, năm nay chúng ta cùng nghe chuyện của các con vật. 1. RÙA VÀ CUA Cùng bị nhốt trong một giỏ tre tại sao Rùa có thể bò ra được, còn cua thì không? Câu chuyện đáng suy ngẫm Tại một quầy hàng truyền thống trong chợ, có một người bán hàng rong bày biện 2 chiếc giỏ tre. Trong hai chiếc giỏ này, một cái có nắp đậy, một cái thì không, đằng sau sự khác biệt này là một câu chuyện rất thú vị… Trong 2 chiếc giỏ tre, có một cái đựng toàn là cua nhưng không có nắp đậy, nhìn vào chỉ thấy những con cua đang tranh nhau bò ra khỏi giỏ, nhưng kết quả là không con nào bò ra ngoài được, bởi vì sẽ bị một con khác kéo xuống. Còn chiếc giỏ kia thì có nắp đậy. Người bán hàng rong mở nắp ra để những khách hàng hiếu kỳ xem một chút. Bên trong là thứ gì? Tất cả đều là rùa đen với đủ kích cỡ lớn nhỏ. Người bán hàng rong nói rõ với mọi người vì sao ông lại phải đậy nắp chiếc giỏ tre này: “Bởi vì con rùa đen lớn nhất sẽ kê ở phía dưới cùng, kế đến là con rùa nhỏ hơn sẽ bò lên trên mình con thứ nhất, tiếp nữa là con rùa nhỏ hơn nữa, và trên tầng cao nhất là con rùa đen nhỏ nhất. Chúng dùng cách thức xếp chồng lên nhau như vậy, đồng tâm hiệp lực, giúp con rùa đen nhỏ nhất có thể ra khỏi giỏ tre, sau đó, những con rùa phía dưới cũng sẽ bò ra được, còn con rùa lớn nhất sẽ dựa vào sức của mình để chui cái đầu ra ngoài”. Người bán hàng rong đậy kín nắp giỏ lại, sau đó nói tiếp: “Cho nên ta phải đậy nắp lại cho nhanh, bằng không đám rùa đen sẽ bò ra hết. Về phần con rùa đen lớn nhất kia, mặc dù không bò ra ngoài được, nhưng nó cũng không oán hận hay tiếc nuối”. Ngược lại, trong chiếc giỏ tre này, với không gian chật hẹp như vậy, thế mà những con cua lại không ai nhường ai, còn tranh chấp tương tàn, trèo đầu cưỡi cổ nhau, tranh quyền đoạt lợi… Cuối cùng chỉ có thể rơi vào kết cục “kiếm củi ba năm đốt một giờ”, nhận cái kết bi thảm, cùng nhau đi đến chỗ chết. Những con rùa đen thì không như thế, với trí tuệ của mình, con rùa đen lớn nhất sẵn sàng kê lót phía dưới cùng của chiếc giỏ tre, để cho những con rùa khác có thể leo ra khỏi giỏ, dù phải hy sinh thân mình vẫn thản nhiên đối mặt - Đây quả thực là một loại tình cảm thương yêu, một tinh thần cao thượng. Câu chuyện về sự tương phản giữa 2 loài động vật này, chính là lấy vạn vật để gợi ý cho con người. Chúng ta cần phải hoan nghênh những người không ngại khó khăn, dám hy sinh thân mình, khẳng định những cố gắng của họ. Đồng thời cũng nên khích lệ người khác, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. “Giúp đỡ người khác sẽ làm nên thành tựu, cũng là thành tựu chính mình”, chúng ta lẽ nào lại không sánh bằng những con rùa đen bé nhỏ kia đây? 2. BÒ & Cái hại của 888 Bò làm mệt, than với chó: “Tao mệt quá”. Chó gặp mèo tâm sự: “Bò nó kêu mệt, chắc làm quá sức, chắc nó đòi nghỉ 1 chút”. Mèo gặp dê tám chuyện: “Bò nó muốn nghỉ 1 ngày vì công việc làm nó mệt quá, có lẽ ông chủ bắt nó làm quá sức”. Dê gặp gà: “Bò nó đòi nghỉ làm, ông chủ bắt nó làm đến kiệt sức thì phải”. Gà gặp heo nói: “Biết chuyện gì chưa, bò nó định đổi chủ và bỏ việc đấy”. Heo méc bà chủ: “Bò nó định đổi chủ hay sao, nghe nói nó muốn bỏ việc vì công việc quá nặng”. Bà chủ nói ông chủ: “Bò nó định tạo phản, nó muốn đổi chủ”. Ông chủ tức giận quát: “Đồ con bò, đã lười lại định tạo phản, thịt nó thôi”. Kết quả: Bò bị giết thịt. Thương con bò. Bài học: Nếu con bò không than với những kẻ nhiều chuyện thêm bớt thì nó sẽ không bị giết. Nếu ông chủ không hồ đồ nghe lời thị phị không hỏi rõ trắng đen thì đã không giết chết con bò. 3. BÒ CẠP Một vị thiền sư nhìn thấy con bọ cạp rơi xuống nước, bèn quyết tâm cứu nó. Ai ngờ vừa chạm vào nó, đã bị nó chích vào tay. Vị thiền sư không sợ hãi, lại một lần nữa ra tay, lần này ông lại bị chích. Người bên cạnh nói: “Nó lúc nào chẳng chích người, hà tất phải cứu nó?” Vị thiền sư đáp: “Chích người là bản năng của con bọ cạp, còn lương thiện là bản năng của tôi, sao tôi có thể vì bản năng của nó, mà vứt bỏ bản năng của tôi?” Kết luận: Lỗi sai của chúng ta nằm ở chỗ, bởi vì đám đông mà thay đổi bản thân. 4. CON QUẠ Một con quạ trong chuyến bay của mình đã gặp một con chim bồ câu đang trên đường về nhà. Con chim bồ câu hỏi: “Cậu muốn bay đi đâu thế?”. Con quạ trả lời: “Thực ra tôi không muốn đi, nhưng mọi người đều chê tiếng kêu của tôi không hay, cho nên tôi muốn rời khỏi đây”. Con chim bồ câu nói với con quạ: “Đừng phí công vô ích nữa! Nếu cậu không thay đổi giọng nói của mình, thì dù cậu có bay đến đâu đi chăng nữa cũng không được chào đón đâu”. Kết luận: Nếu bạn hy vọng mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp, vậy hãy bắt đầu từ việc thay đổi bản thân mình. 5. CHUYỆN GÀ - CƯỜI XẢ STRESS Tin nóng : Một vụ tai nạn quá thương tâm và đã dẫn đến tử vong ngay tại chỗ Vào lúc 6g30 sáng nay tại địa bàn thôn Cành lá, xã Cành cây, huyện Gió bay, tỉnh Mù mịt đã xảy ra một vụ tai nạn hết sức thương tâm. Nạn nhân được xác định là chị Mái Thị Dậu, 13 tháng tuổi ngụ tại thôn Lông bông. Theo lời kể của người hàng xóm bên cạnh nhà ông Riêng là chị Ngan và anh Ngỗng, thì trong lúc chị Dậu loay hoay đào giun ở dưới gốc cây vườn nhà ông Riêng. Thì lúc đó anh Sầu con trai của ông Riêng cũng đang lấy tổ ong trên cây không may bị ong chích và rơi trúng vào người chị Dậu. “Nghe tiếng kêu oác tôi chạy ra nhưng không kịp, cháu Dậu đã gãy cổ và chết ngay tại chỗ” - theo lời bà Tư vợ của ông Riêng nói. Sau khi tai nạn xảy ra, người dân xung quanh đã nhanh chóng đưa thi thể của chị Dậu tới khoa Hấp, bệnh viện Cách Thủy để tiến hành khám nghiệm tử thi. Còn anh Sầu con ông Riêng thì do rơi ở độ cao 10m nên đã bị chấn thương nặng và đang được phẫu thuật, theo dõi tại Trung tâm chỉnh hình Sinh Tố. Tai nạn đang được cơ quan chức năng tiến hành điều tra và xác minh vụ việc… HÀ MẠNH ĐOÀN Tổng hợp trên Internet ĐIỂM MẶT THỜI GIAN Chẳng phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy sợi tóc bạc, chẳng phải lần đầu tiên tôi nhìn khoé mắt trũng trong gương, cũng chẳng phải lần đầu tiên tôi nhắc lên thành tiếng một con số. Con số ấy trườn dài theo gió nắng trời mây, trườn dài theo khóc cười khôn dại, trườn dài theo suốt cuộc hành trình mà điểm dừng chỉ có một. Bỗng nghĩ đến một thứ tâm thế luôn hiển hiện trong thế giới nhân tình “sợ già” . Chính vì cái sợ này mà đã có rất nhiều động thái níu lại thời gian, à mà không, nói một cách chính xác hơn là níu lại sắc vóc. Nào là nhuộm tóc, nào là căng da, nào là matsa, nào là thuốc bổ… Tâm thế sợ già này bắt nguồn từ quan niệm “Già là vất đi, già là bỏ xó”, và thêm một góc độ nữa, già là mất hết những uy phong, giá trị. Để rồi cả nam lẫn nữ, đều cố gắng bằng mọi biện pháp cho thấy mình chưa già, ít nhất cũng thỏa mãn về mặt tâm lý. Nhưng vấn đề là ở chỗ, tính hai mặt của các biện pháp ấy, tác dụng phụ của những liều thuốc bị sử dụng quá mức cần thiết, hoặc di chứng, tai biến của những thủ thuật, tác động. Đó là nói về mặt sức khoẻ thể chất, còn sức khoẻ tâm lý mới thật là đáng ngại. Tâm lý bất ổn sẽ sinh ra những va chạm, mâu thuẫn, bởi có những lời nói không hề ẩn chứa ác ý, nhưng dễ bị chạnh bởi ý nghĩ người ta đang chê mình già, hoặc có những việc làm thiếu tự tin vì sợ bị cho là già. Không ít những biểu hiện cố làm ra vẻ mình chưa già, mình còn trẻ trung lắm lại trở thành một sự kệch cỡm lố bịch. Đành rằng với những hạn chế nhất định khi đã vào một độ tuổi, không cho phép người ta làm được nhiều hơn khả năng có thể, nhưng luôn có những ưu khuyết trong mỗi thời đoạn. Mặc nhận và vẫn làm tốt những gì trong phạm vi của giới hạn, thì vẫn tạo cho mình một tâm thế tương xứng. Tâm hồn và thể chất đôi khi không đồng nhất trong nhiều cử chỉ và hành xử. Thể chất có thể già về mặt sinh học, nhưng tinh thần vẫn khoáng hoạt, cởi mở, lạc quan, và tinh tấn, thì cái sự già ấy hầu như không tồn tại trong khái niệm của tâm thức. Trẻ có lợi thế của trẻ, nhưng cũng có những bất cập của sự nông nổi, hời hợt, vội vã. Trẻ sức lực, sắc vóc mà không được bổ trợ của sự cân nhắc, nghiêm chuẩn, thì cái trẻ ấy lại là một nguy cơ của sự lầm lạc, xốc nổi. Không hiếm những trường hợp mang thương tích đến cả cuộc đời. Tuổi trẻ thường được xem như một chiếc lò xo của các chốt cửa. Năng động, xông xáo, dũng cảm, nhiệt huyết, nhưng đi kèm với những ưu điểm ấy luôn là những bước trượt cho dù luôn được cảnh báo. Vậy, với những lứa tuổi đã khá nhiều trải nghiệm, lại là một cán cân định lượng. Và những thành công có thể bền vững nhờ vào cái cán cân này. Với những người sống đúng với tuổi của mình, họ có một tâm thế thật an nhiên nhẹ nhõm. Họ vẫn làm tốt những gì họ làm được, họ vẫn luôn đón nhận những niềm vui tự nhiên, họ bằng an với những diễn biến thông thường của tạo luật. Chính sự bằng an và nhẹ nhõm ấy làm họ toát lên một tinh thần sống tươi trẻ chan hòa. Bởi họ hiểu rất rõ quy luật cuộc sống, họ không có gì phải tiếc rẻ hay níu chụp, nhờ vậy, những người sống quanh họ cũng thoải mái trong ứng xử, không phải lo lắng sự sơ suất tình cờ nào đó của mình mà làm tổn thương người. Thật sự thì, tâm lý sợ già là một chướng ngại rất lớn, để rồi người ta luôn tìm cách để vượt qua nó. Và rồi cũng vì vậy mà người ta thường tiêu phí rất nhiều thời gian, sức lực và cả tiền bạc cho những việc làm vô nghĩa. Quy luật tự nhiên thì vẫn đi theo hành trình tự nhiên, không một ai có thể ngược lại, vậy thì cố kết làm gì những việc làm vô ích, chỉ càng thêm chứng tỏ cho cái sự mất cân bằng của tuổi tác. SỐNG. Không phải là sự kéo dài con số thời gian, mà SỐNG một cách đúng nghĩa là mỗi ngày ta luôn được cho và nhận, luôn được trao đổi mình với cuộc đời trong một tâm thế bình nhiên túc hạnh. Việc giữ gìn sức khoẻ và một tâm thái an lạc là điều cần thiết, nhưng cũng rất cần thiết phải xác định thế nào là phù hợp, là chừng mực và hiệu quả. Tất cả mọi sự thái quá cũng dễ trở thành bất cập, tất cả mọi sự lạm dụng cũng dễ trở thành phản dụng. Thời gian luôn là một kẻ vô tình và luôn bật lên tiếng cười ngạo nghễ thách thức. Những cái nhích của chiếc kim đồng hồ luôn làm người ta phải vội vàng sấp ngửa, hối hả tranh chen, và không phải lúc nào cũng đạt ý muốn với sự nhanh chân, vì vậy mà không ít cuộc đời phải mất nhiều thời gian cho sự hối tiếc. Hãy xem cuộc sống này là một cuộc chơi đầy thi vị và ngẫu hứng. Hãy xem cuộc đời này là một bức tranh tổng thể mà trong đó mỗi cá nhân là một vệt chì hưng sắc. Hãy đi dưới vòm trời này bằng những bước chân điềm tĩnh và thanh thản. Bởi… Đường đời là một cuộc đua nghịch lý, mà người đến trước lại là kẻ thua cuộc. ĐÀM LAN DƯỜNG NHƯ MÙA XUÂN ĐẾN SỚM C ó chú chim bay lạc vào phòng, hót lên rộn rã đánh thức Lâm. Anh vươn vai, mở bừng mắt. Hình như đã trưa lắm rồi! Nắng chui qua cửa sổ, đổ một mảng sáng lớn xuống mặt nệm cạnh Lâm. Anh ng ồi bật dậy bực tức kêu lên: - Nguy ệt Cầm lại đi nữa rồi! M ở cửa phòng, Lâm gọi như thét: - D ì Tư, dì Tư đâu rồi? Ng ười giúp việc cho vợ chồng Lâm từ dưới bếp tất tả chạy lên: - C ậu gọi tôi? L âm trút bực bội lên đầu người làm thuê: - Ch ứ không lẽ tôi gọi tôi. Qu á quen với tình tình cậu chủ, dì Tư không giận còn bật cười: - D ạ, tôi xin lỗi cậu nghen cậu hai. - Th ôi, lỗi phải gì. Dì thấy vợ tôi đâu không? Tho áng nhìn khuôn mặt cau có của Lâm, dì biết sóng gió sắp nổi lên nên tìm cách ngăn cản: - D ạ, hồi nẫy mợ Hai làm món hột gà ốp-la cho cậu rồi mới... L âm cắt ngang: - M ới đi tập tuồng chứ gì? D ì tư cười lỏn lẻn: - C ậu biết hết trơn hà! - Th ôi đừng làm bộ nữa dì ơi! Ruột của dì với vợ tôi mấy khúc tôi còn biết nữa là khác. Dì đừng bao che cho vợ tôi. - C ậu nói kỳ quá! Mợ Hai có làm gì quấy mà tôi phải bao với che? Mợ làm đồ điểm tâm cho cậu thì tôi nói mợ làm... - H ứ, tưởng làm gì ngon. Nay hột gà ốp-la ăn với bánh mì, mai bánh mì ăn với hột gà ốp-la. - C ậu quên rồi sao, bữa hổm mợ Hai nấu cháo cậu bảo ăn cháo mau tiêu chóng đói, cậu đòi ăn... - Th ôi đi, mệt dì quá! Kệ tôi! Tôi biết dì theo phe vợ tôi mà. D ì Tư ấm ức: - V ậy chứ mợ Hai dễ thương, tốt bụng như vậy, tôi không quý sao được. Cậu khó muốn chết mà mợ còn thương nữa là... L âm thẹn đỏ mặt: - D ì nói tôi khó là khó làm sao? Bi ết mình lỡ lời nhưng dù sao cũng đã nói ra dì đành huỵch toẹt ý nghĩ của mình: - Xin l ỗi cậu nghen cậu Hai. Trên đời dưới thế tôi chưa thấy ai khó kỳ cục như cậu. Vợ làm đào hát mà không cho đi tập tuồng rồi làm sao biết diễn. - H ứ, nói dễ nghe quá! Tập gì mà tập mỗi ngày vậy chứ. Làm bộ để đi chơi thì có. D ì Tư bật cười: - C ậu đa nghi quá trời! Có tập luyện khi diễn mới hay. Không thích như vậy sao cậu không chọn con gái ở quê mình, họ đâu có đi tập tuồng. L âm thầm nhận dì Tư nói đúng. Phải chi anh chọn người ở cùng quê thì đâu buồn bực như vầy. Có cô còn đẹp hơn Nguyệt Cầm lại đảm việc nhà, giỏi việc ruộng rẫy. Suốt ngày họ săn sóc gia đình, cáng đáng việc đồng áng. Phải chi... ôi những điều phải chi... của cái đầu hoàn toàn độc lập với trái tim. Con tim có lý lẽ riêng của nó. Không vụ lợi, không tính toán, chỉ biết cảm xúc vui hay buồn, đau khổ hoặc hạnh phúc và yêu hoặc không yêu mà thôi! Trái tim nào được cái đầu “lãnh đạo” thì một nửa ngăn tim chứa đầy bóng tối. Nó sẵn sàng tràn sang phần còn lại, đuổi tình yêu ra ngoài. Lâm thuộc loại người có trái tim lớn hơn cái đầu nên anh yêu say đắm, mê mệt, cuồng nhiệt đến độ có những biểu hiện mù quáng. H ình như trời sinh Lâm ra là để yêu Nguyệt Cầm. Dù hai người có hai hoàn cảnh sống khác biệt. Quê Lâm ở vùng đồng bằng Nam bộ. Gia đình anh rất giàu, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Đã vậy, ba Lâm có biệt tài quan sát, tiếp cận thị trường. Ông dự đoán rồi tính toán chính xác phương cách dù nhỏ nhưng hái ra bạc. Nhận thấy trái Thanh Long được mọi người ưa chuộng. Và còn là một mặt hàng hiếm quý. Ông đã mạnh dạn tận dụng những cái cọc để dây tiêu bám vào giờ thay thế cho Thanh Long. Vườn tiêu biến thành vườn Thanh Long trù phú. Chỉ trong một thời gian không lâu, người ta nhìn thấy những đóa hoa Thanh Long nở rộ rồi trái xuất hiện. Chúng tựa như những bóng đèn đỏ chon chót, tươi tắn thắp sáng khu vườn, biến vùng đất quê mộc mạc thành một nơi đẹp đẽ, giàu có. Thanh Long đã giúp cho gia đình Lâm thêm khá giả. Nhưng cũng chính vì vườn tược thênh thang, đồng ruộng mênh mông ngút mắt mà Lâm phải quay về giúp cha mẹ quản lý thay vì học tiếp lên bậc Đại học. Phải chi Lâm có nhiều anh em thì tuyệt biết bao. Đàng này Lâm là con một. Tất nhiên tài sản này Lâm hưởng trọn nhưng anh cảm thấy có điều gì đó uẩn ức lắm. Tận đáy lòng anh là mơ ước tung mây, lướt gió. Đến khi mỏi mê mới quay về tổ cũ. Lâm chua xót khi thấy tóc cha mẹ bạc dần mà suốt ngày tất bật công việc. Anh còn lòng dạ nào để bay nhảy nữa. Dần dần, Lâm cũng quen với công việc đồng áng, có niềm vui thu hoạch. Anh bắt đầu cảm thấy gắn bó với quê hương, biết yêu và trân trọng mảnh đất đã đem đến cho anh sự giàu, bình yên. Lâm hài lòng với cuộc sống hiện tại. Nh ưng Nguyệt Cầm đã làm đảo lộn mọi thứ. Cô khiến Lâm hiểu rằng còn một thứ tình cảm nữa cũng mãnh liệt, say đắm và quyến rũ. Đó là tình yêu! Tình yêu xuất phát từ trái tim. Nó đốt cháy lòng anh bằng nỗi nhớ. Nó hành hạ anh bằng mơ ước và xúi giục anh giành lấy, sở hữu ước mơ của mình. Đú ng lúc gia đình tổ chức mừng thọ lục tuần cho cha Lâm thì có đoàn hát cải lương về chợ huyện. Vâng lời mẹ, anh theo người chú đi rước đoàn hát về diễn tại xã nhà vài đêm. Lỡ buổi, hai chú cháu phải chờ đoàn hát diễn một xuất vì họ đã bán vé rồi. Đêm ấy anh đã gặp Nguyệt Cầm. Dù trước đây lúc đi học Lâm không thích cải lương. Nhưng khi xem Nguyệt Cầm diễn Lâm mới cảm nhận được cái hay của bộ môn nghệ thuật này. Nàng đã điều khiển cảm xúc anh tựa như gió lùa vạt lúa rạp mình theo chiều thổi. Lâm nghe lao xao nỗi gì lạ lẫm chưa từng có. Anh muốn khóc khi nhìn “người vợ trẻ” cắt mái tóc thề bán đi. Vậy mà gã đàn ông bội bạc nỡ vong ân khi đỗ trạng nguyên. Tên Trần Thế Mỹ khốn kiếp đã quên đi số tiền lộ phí ngày lên đường ứng thí, quên người vợ trẻ đã vì mình mà bán mái tóc xanh. Lâm muốn nhảy lên sân khấu nắm đầu tên đốn mạt, dộng cho hắn vài đấm vào mặt. Anh nhấp nhỏm, nghiến răng trèo trẹo. May là có người chú ngồi bên buột miệng: - H ọ diễn hay quá hả mậy? L âm hét lên: - Th ằng khốn nạn! Nhi ều người ngồi gần quay nhìn anh, ông chú kinh ngạc xoay qua hỏi: - M ầy chửi ai vậy Lâm? Anh ch ỉ tay lên sân khấu: - Th ằng Trần Thế Mỹ chớ ai. Ô ng chú ôm bụng cười ngất: - Kh ùng ơi là khùng! Người ta diễn tuồng chứ bộ thật sao hả mậy... ha ha ha... Đê m đó, Lâm cứ trằn trọc, trăn trở mãi không ngủ được. Anh biết từ nay mình không thể quên cô gái ấy, cô đào chánh có cái tên Nguyệt Cầm. Lâm gọi thầm Nguyệt Cầm, Nguyệt Cầm... cho đến khi thiếp đi. S áng hôm sau, bỏ mặc cho người chú điều đình, bàn bạc với ông bầu, Lâm đeo riết Nguyệt Cầm. Dưới ánh mặt trời, Nguyệt Cầm không son phấn đẹp hồn nhiên, hiền hậu, trong trẻo như hoa còn phong nhụy. Anh không rời cô gái nửa bước. Chỉ trong vòng vài giờ cái tin Lâm mết Nguyệt Cầm bay ra khắp nơi và nó được khẳng định chính xác khi chiếc ghe chở đào kép tấp vào bến đò của xã. Vì mải ngó theo Nguyệt Cầm, lúc lên cầu, Lâm hụt chân rơi tòm xuống nước. Báo hại mọi người một phen cười vỡ bụng. Ông chú trẻ lôi thằng cháu lại gần, đay nghiến: - V ừa vừa thôi cha! Mầy làm quê độ quá trời! Làm ơn chừa mặt chừa mày để đi đây đi đó với! C ó lẽ nhờ vậy cô gái tài hoa để ý. Nguyệt Cầm bị lôi cuốn bởi cái mê đắm của Lâm, vẻ cuồng nhiệt mà cô chưa từng gặp ở những người thành thị. Số người yêu Nguyệt Cầm không ít. Họ săn đón, quà cáp đủ thứ nhưng chưa ai làm cô rung động. Bây giờ gặp Lâm, cô cảm thấy tim đập lên rộn từng hồi, buồn vui lẫn lộn. Cô biết gã con trai nầy đã chinh phục được cô bằng lòng yêu thương chân thành của hắn. Nguyệt Cầm nhận lời cầu hôn của Lâm làm cho bao người kinh ngạc. Nhất là ba và anh ruột của cô. Họ là những nhạc sĩ đàn ca cổ trong đoàn hát. Cả gia đình cô quen sống đời phiêu bạt. Dù nghèo tiền nhưng dư dả tiếng tăm. Nói đến ngón đàn của ba cô ai cũng phải trầm trồ, khen ngợi. Tiếng đàn gợi nên nỗi buồn da diết, phụ họa cho giọng hát ngọt ngào, mùi mẫn của nghệ sĩ khiến người nghe xót cả tim, xuýt xoa, chắc lưỡi. Ông yêu đàn, yêu sân khấu nên đặt tên cho con dù trai hay gái cũng có chữ Cầm. Cầm Hạc và Nguyệt Cầm. Ông uốn nắn con để chúng cũng yêu nghệ thuật cải lương như ông và theo nghiệp cầm ca. Ông đã toại nguyện. Cầm Hạc đàn giỏi. Nguyệt Cầm từ một đào con dần dần thành đào chánh, dẫn đầu về tài diễn xuất trong đoàn. Đang lúc vinh quang, con bé bỗng đem lòng yêu con một ông chủ vườn giàu có. May mà Nguyệt Cầm cũng không phụ lòng mong mỏi của ông. Cô ra điều kiện với bên chồng nếu được tiếp tục theo đoàn hát thì cô mới ưng thuận. Cha mẹ Lâm không vừa ý nhưng thấy con trai si mê người ta quá họ cũng phải chìu. Đâu dễ gì có được đứa con dâu nổi tiếng như Nguyệt Cầm. Ông bà chỉ hy vọng một ngày nào đó Nguyệt Cầm sẽ hát kém đi, ít được ái mộ. Cô sẽ cùng chồng về quê sống với họ. Thôi thì để bọn trẻ bay nhảy một thời. Do v ậy, Lâm đã cưới được Nguyệt Cầm và theo vợ rày đây mai đó. Dù không nói ra nhưng anh cũng ngầm mong vợ ngày một mờ nhạt dần để chỉ là của riêng anh. Nhưng càng ngày cô càng nổi tiếng. Và trở thành đào chánh trong một đoàn hát đóng tại thành phố. Số tiền kiếm được cao dần. Nguyệt Cầm định thuê nhà ở thành phố nhưng ba mẹ Lâm đã cho con trai một số tiền lớn để mua hẳn một ngôi nhà tuy trong hẻm nhưng được cái gần chỗ nhà hát và nó cũng khá khang trang, rộng rãi. Dù cô yêu anh thật lòng, hết sức chiều chuộng anh, tỏ ra là một người vợ hiền hiếm có nhưng lúc nào Lâm cũng mang tâm trạng bất an. Anh luôn bực tức, lo lắng vẩn vơ bắt nguồn từ lúc ghé qua chỗ vợ tập tuồng. G ã kép chánh đóng vai người tình của vợ anh hết nắm tay lại ôm chầm lấy Nguyệt Cầm. Còn vợ anh thì mắt đẫm lệ gào to: - Ch àng ôi, nếu phải xa chàng thì cuộc sống này còn nghĩa lý gì nữa! V ừa siết chặt Nguyệt Cầm trong vòng tay, hắn vừa bắt giọng ca: - Th ôi, nàng hãy về với người chồng giàu sang... phú quý... cứ để cho ai với cát bụi... phong trần... “ Rầm!” Lâm đấm tay xuống mặt bàn và cũng gào lên: - Th ôi hãy im đi đừng giả vờ nữa. Nguyệt Cầm... đi về! M ọi người giật nẩy mình nhưng liền đó, họ cười rộ lên từng chặp. Nguyệt Cầm đỏ mặt đến bên chồng cằn nhằn: - Anh t ới đây chi vậy? V ừa kéo tay vợ lôi đi, anh vừa gằn giọng: - V ề ngay! T ới nhà, hai người cãi nhau một trận ra trò. Lâm chỉ trích vợ không đứng đắn. Đã có chồng rồi còn để trai ôm ấp, kề vai, cọ má. Cử chỉ đó có khó gì mà phải tập. Đây chỉ là cái cớ để... tò tí mà thôi. Nguyệt Cầm cũng đùng đùng nổi giận. Cô chê anh lạc hậu, ghen tuông vô lối, làm cô mắc cỡ với bạn bè. Đó là màn diễn nếu không tập làm sao ăn khớp. Diễn kém đâu thể gây cảm xúc nơi người xem. Diễn qua loa, cẩu thả là gián tiếp khinh thường khán giả, phụ lòng tin của mọi người, vô ơn với những người mến mộ mình. Nguyệt Cầm nhấn mạnh: - N ếu anh thấy em không xứng đáng thì hai đứa mình chia tay nhau chứ em không thể chịu được cảnh như thế này. Em khổ lắm! Sau đó, Nguyệt Cầm bỏ về nhà cha mẹ ruột, còn Lâm xách va li về quê. Anh nhất quyết không chịu thua vợ. Nh ưng chưa được hai ngày Lâm đã nhớ vợ đến mụ người, biếng ăn, không ngủ. Mẹ anh nhận xét: - Y chang nh ư chết chưa chôn. Ng ười chú trêu chọc: - D òm mầy là tao biết hai vợ chồng đang giận nhau. Giận mà thương phải hông? Thôi chịu lép vế đi mầy ơi! Mắc cỡ gì mà không về năn nỉ, ỉ ôi vợ. Ch ẳng biết làm sao hơn, Lâm đành lộn ngược lên thành phố đến nhà ba vợ để òn ỉ hết lời. Phải mất cả ngày Nguyệt Cầm mới xiêu lòng. Cô ra điều kiện: - N ếu anh còn... ghen thì em... xù anh luôn! D ù đã hứa với vợ là không ghen, Nguyệt Cầm được tự do đi tập tuồng nhưng lúc nào lòng anh cũng âm ỉ lửa hờn ghen. Anh nghi ngờ đủ thứ và quạu quọ mỗi lần vợ đi vắng. Nhất là mấy ngày nay, gần đến Tết, để phục vụ khán giả trong mấy ngày xuân, đoàn có xây dựng mới vở tuồng mới nên Nguyệt Cầm cứ phải đi... tập tuồng. S áng nào thức dậy anh cũng thấy vắng mặt Nguyệt Cầm. Cô đi đến trưa trời trưa trật mới về. Ăn xong lăn ra ngủ, đến xế chiều mới dậy. Quanh quẩn bên anh có bao lâu đâu lại đi hát. Đến khuya, Nguyệt Cầm phờ phạc, mệt mỏi trở về, tắm táp, tẩy trang xong lại lăn ra ngủ. Bỏ mặc anh thao thức, trằn trọc với bao điều lo nghĩ. - Ăn đi cậu, thức ăn nguội hết rồi. Rảnh rỗi, cậu đi đâu đó chơi đi chứ ở nhà chờ đợi rồi quạu. Cậu giận hoài làm sao mợ Hai yên tâm hát xướng. Rốt cuộc khổ cả hai. L âm giật mình sực tỉnh khi nghe dì Tư nhắc nhở. Anh ngồi vào bàn và cảm thấy mình nhỏ nhen quá. Anh là chồng mà chưa hiểu vợ bằng dì Tư. Dì Tư vốn cùng quê, cùng xóm với anh. Vì nghèo phải theo anh lên thành phố giúp việc cho vợ chồng anh để kiếm ít tiền giúp đỡ gia đình con trai của dì. Trình độ thấp kém nhưng xem ra dì thấu hiểu và đồng cảm với nghệ sĩ. Dì xem vợ anh như thần tượng hiếm có. Câu nói của dì Tư khiến anh chợt nghĩ đúng là mình quá rảnh rỗi, ăn không ngồi rồi nên mới ra chuyện. Có lẽ anh cần suy nghĩ thêm về vấn đề này. Chuyện ruộng vườn đã có chú Út phụ cha mẹ. Dầu gì cũng ruột thịt mà cùng canh tác để chia nhau sống, vì thế Lâm bớt lo vụ nầy. Có lẽ anh sẽ đi học ôn để thi vào Đại học. Tuy có muốn nhưng đó chính là điều mà anh thầm mơ ước bấy lâu. Chắc cha mẹ anh cũng thấy vui hơn là anh cứ ở nhà... ngóng vợ về. Anh chợt thấy vui hẳn lên. Anh nhất quyết đạt cho được bằng cử nhân kinh tế. Cạnh đó việc học sẽ còn cho anh thêm kiến thức để lo kinh tế... gia đình. Lâm vỡ oà niềm vui khi nghĩ đến đây. Biết được ý định của anh chắc Nguyệt Cầm sẽ mừng lắm vì anh không còn... - M ình ơi! Mình đâu rồi! Nguy ệt Cầm bất ngờ quay về, cô xuất hiện ở cửa, nhoẻn miệng cười với anh. Cô âu yếm, ngọt ngào: - M ình đây rồi! Nguy ệt Cầm sà đến bên anh, hai tay ôm choàng qua vai rồi lại vuốt má. Hai bàn tay cô xới tung mái tóc đã sẵn rối bù vì chưa chải của chồng, cô nũng nịu: - Ng ồi đây mà hổng chịu lên tiếng gì hết hà. Ghét quá đi! L âm tủm tỉm cười. Lòng anh như vừa được ướp mật ngọt lịm làm anh say ngất. Anh đê mê trong cảm giác hạnh phúc mà bấy lâu anh không nhận ra. Quên dì Tư còn đứng gần đó, anh ôm chầm lấy vợ, đặt cặp môi còn bóng mỡ lên gò má nàng. Anh thì thầm: - Nguy ệt Cầm, anh yêu em lắm. Em cứ... đi tập tuồng đi em. Nguy ệt Cầm cười khúc khích trong vòng tay anh. Dường như xuân đến sớm. Ngày kia, nắng gió và hoa bỗng dưng khác lạ, ngát hương. Chúng xao động, ngất ngây như lòng người biết yêu! Nguyễn Thị Mây MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.12.2019 ....... Vũ Thư Hữu . 01 Vài dòng về 1 cuốn sách nhỏ téo nhưng lại dễ thương tuyệt vời... Vũ Anh Tuấn . 04 Lịch sử Giáo Hội Công Giáo .....Bosco Ng.V.Đình, ofm & Lm. Giuse Ng.H.Triết .... 06 Tác hại của Y Ngữ Bất Y Nghĩa ...... Tâm Nguyện . 13 Kỷ niệm 23 năm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa ..... Phạm Vũ . 23 Chỉ có ông mới có thể nói vậy ...... Thúy Toàn .. 31 Cuộc xử đền ân oán của Kiều... Nguyễn Văn Sâm .. 34 Nguồn gốc món Phở ....... Lệ Ngọc st. .. 42 Sơn mài, một nghệ thuật tuyệt vời ..... Đỗ Thiên Thư st. .. 45 Tận nhơn lực mới tri thiên mạng ..... Phạm Hiếu Nghĩa . 50 Cây mai trắng khai sinh một địa danh .... BĐ. st. .. 55 Vài dòng về Lindau.... Đào Minh Diệu Xuân st . .. 59 Xuân chúc (thơ) ....... Đàm Lan . 67 Niềm tin & Ước vọng - Cúc đại đóa (thơ) ... Ngàn Phương .. 68 Những ngày cuối năm - Thơm (thơ) Huỳnh Thiên Kim Bội . 69 Nỗi buồn tháng Chạp (thơ) .. Phạm Thị Minh-Hưng .. 70 Bút Xuân (thơ) ......... Xuân Vân .. 71 Như đã vào Xuân (thơ) ....... Nguyên Lê .. 72 Thơ phơ mái tóc nhớ thời ấu thơ (thơ) .... Hoàng Thị Vinh .. 73 Xuân nhớ quê (thơ) ...... Đinh Thị Diệu .. 74 Phúc Xuân (thơ) .. Lương Văn Nhung .. 75 Chùm thơ Xuân (thơ) ...... Lê Nguyên .. 76 Họa & Bình bài Ngày Xuân chợt vịnh (thơ) .... Lang Nguyên .. 77 Con về - Tết nghèo (thơ) ..... Lam Trần .. 78 Bảy mươi (thơ) ....... Hoài Ly .. 79 Nỗi niềm (thơ) ....... Vũ Thùy Hương . 80 Hoa đón nụ (thơ) ........ Thanh Phong .. 80 Di ngôn - Vay tiền… Phật! (thơ) ...... Thanh Phong .. 81 Thăm quê - Đón Xuân (thơ) ...... Quang Bỉnh .. 82 Tết - Vô đề (thơ) ...... Lê Minh Chử .. 83 Ngày Xuân - Vào Xuân (thơ) ......... Thanh Châu .. 84 Chào cụ Fansipăng (thơ) ............ Trần Nhuận Minh .. 85 Saluting old Mr. Fansipang (thơ) ... Vũ Anh Tuấn dịch .. 86 Tác phẩm đầu tay & cuộc đời của Nhạc sĩ Hải Linh .... Hà Mạnh Đoàn .. 87 Liệu pháp hướng dẫn bệnh nhân Nhớ lại kiếp trước (tt & hết) ... Hoàng Kim Thư st .. 94 Ăn trái cây khi bụng rỗng… ....... NCT. st. 101 Tiệc vui ......... Lam Trần 10 5 10 lợi ích sức khỏe tuyệt vời từ rau xà lách .. Phùng Chí Tâm st. 115 Gian hàng 0 đồng ......... Hoàng Chúc . 117 Sáu loại rau quả tẩy độc gan - Năm loại nước uống bảo vệ gan, ngừa ung thư ....... Quan Thúy Mai st . . 121 Bốn mùa trong đời ...... Kim Sơn st. 122 Chuyện vui loài vật ...... Hà Mạnh Đoàn tổng hợp .. 124 Điểm mặt thời gian ....... Đàm Lan 128 Dường như mùa Xuân đến sớm ....... Nguyễn Thị Mây 131
|