VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 13/04/2019 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn đều bằng Pháp văn. Cuốn đầu khổ 19x27 dày có 20 trang, được xuất bản năm 2012, mang tựa đề là “Nghệ thuật giữ gìn và làm đẹp các cuốn sách của bạn” (L’art de conserver et d’embellirvos livres) do hội “Đóng sách tại gia” cho in. Cuốn sách tuy chỉ có 20 trang nhưng chứa đầy hình ảnh đẹp và chỉ đủ cách để bảo trì và làm đẹp những cuốn sách người đọc có. Vì tò mò nên người viết đã mua để xem cuốn sách có gì đáng áp dụng không, chứ người viết là người đã có cả một đời chơi sách và giữ sách, thì chưa chắc cuốn sách này đã có gì đáng phải nghe và áp dụng theo. Cuốn thứ nhì là một cổ thư in năm 1672 tức là 347 năm tuổi mà vẫn còn mới được khoảng 70%. Cuốn sách khổ 9x15, dày 618 trang, bìa toàn da còn gần như nguyên vẹn mang tựa đề là “Bản tường thuật có chứa đựng lịch sử Hàn Lâm Viện Pháp” (Relation contenant l’histore de l’Academie Francoise). Tên cuốn sách được viết đúng như dòng chữ trên và điều đặc biệt là tiếng Pháp gần 3 thế kỷ rưỡi trước không có dấu và từ francais được viết thành francoise! Một điều đáng chú ý là vào năm 1672 tức là vào thế kỷ 17 mà tựa đề nói là “chứa đựng lịch sử Hàn Lâm Viện Pháp” thì có nghĩa là Hàn Lâm Viện Pháp đã ra đời trước thời điểm đó hơi nhiều, và người viết tự hứa sẽ dành thì giờ đọc cuốn sách để thỏa mãn sự tò và mò của mình! Có được cuốn sách người viết cũng bị một vết cứa nhỏ nơi cổ, nhưng lòng yêu thích cuốn cổ thư đã khiến người viết quên đau và vết thương cũng lành ngay tắp lự! Người viết muốn các thành viên được thấy một cuốn sách đã có mặt trên đời hàng trên dưới 300 năm trước khi mình… vào đời! Sau khi được giới thiệu cuốn cổ thư đã được một vài thành viên chuyền tay nhau xem. Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, thành viên Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ của chính ông. Tiếp lời thành viên Phước Hải, thành viên mới Lương Vĩnh Nhung cũng lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ Trường xưa và Nhớ đò xưa. Anh Nhung ngâm thơ xong, thành viên Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ hài và hát tặng các thành viên bài Ngày về. Sau anh Thanh Phong, anh Phạm Vũ lên nói về Quốc Tổ Hùng Vương. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Minh lên nói một câu truyện ngắn về y khoa và hát tặng các thành viên bài Hạnh Phúc đầu Xuân của Minh Kỳ và Lê Vân. Sau anh Minh, Quan Thúy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Anh đi chiến dịch” của Phạm Đình Chương. Sau Quan Thúy Mai, Thùy Hương lên hát tặng các thành viên hai bài “Lưu dấu sách thơ Tân Sa Châu” và bài “Thổn thức”. Thùy Hương hát xong, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên bài “Biển cạn” của Nguyễn Kim Tuấn. Tiếp lời anh Tấn Thuận, anh Nhựt Thanh lên nói về luật thơ mà anh thử viết lại và về nguồn gốc thơ lục bát. Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Phùng Chí Tâm lên nói về Bảo Sinh người bạn anh làm khách sạn cho chó mèo, và hát tặng các thành viên một bài hát của Nga. Sau anh Phùng Chí Tâm, anh Thanh Vĩnh lên nói và ngâm một bài thơ về Quốc Tổ Hùng Vương. Sau anh Thanh Vĩnh, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Mái trường xưa”. Tiếp lời Lệ Ngọc anh Chử lên hát tặng các thành viên bài “Đồng Sen mùa hạ”. Sau anh Chử, Kim Sơn lên ngâm tặng các thành viên bài “Ký ức tháng tư”. Kim Sơn ngâm xong, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên thêm bài “Những chiều không có em”. Sau anh Tấn Thuận, thành viên Tuyết lên hát tặng các thành viên bài “Hoài cảm”. Cuối cùng, anh Thanh Châu với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc đã lên hát tặng các thành viên bài “Hương quê” của Hoàng Thi Thơ và buổi họp kết thúc lúc 11g15. Các thành viên vui vẻ chia tay hẹn gặp lại vào tháng sau. VŨ THƯ HỮU
VÀI CHI TIẾT VỀ
MỘT SIÊU QUÝ THƯ MỚI CÓ Sáng nay, khi đang ngồi ăn sáng mình nhận được một cuộc gọi, cho biết người gọi vì vô Facebook nên biết về mình và có số điện thọai. Anh ta cho biết là anh ta ở Củ Chi và muốn mời mình ghé nhà anh ta xem một tủ sách của người anh, một nhà thơ, để lại sau khi qua đời bốn năm trước. Anh ta xin địa chỉ và cho biết lúc 8g sáng sẽ cho người cháu chạy taxi Mai Linh lại đón để đưa mình đi Củ Chi. Mình cho ngay địa chỉ và hứa đợi... rồi cúp máy! Nhưng đúng vào lúc đó, mình bỗng cảm thấy hơi nguy hiểm vì mình chưa hề quen biết với người gọi điện mời, và cả người taxi nữa, làm sao biết được anh ta sẽ đưa mình đi đâu? Nghĩ vậy mình định rút máy điện thoại gọi để thoái thác từ chối. Nhưng lại cũng đúng vào lúc đó, mình bỗng nhớ tới câu nói mà mính thích là “người lành cái ác nó lánh” và bỗng thấy nếu mình sợ thì hóa ra là mình “là kẻ ác chứ đâu phải người lành?” và kết quả là mình về nhà chờ... Sau 8 giờ một chút có một chiếc taxi tới và người tài xế, một thanh niên trông hiền lành, cho biết chú cậu ta, một người tên là Quý ở Củ Chi, nhờ cậu ta tới đón. Nửa giờ sau mình được gặp người gọi điện mời. Đó là một người đàn ông trạc trên dưới 60 tuổi, và sau khi bắt tay ông ta xin lỗi vì sự đường đột gọi đến mình và cho biết là ông ta biết tới mình qua một người bạn có tham dự CLB Sách Xưa & Nay là anh Lang Nguyên (mới qua đời mấy tháng trước), do đó đã gọi mời mình tới xem sách. Tủ sách khá đẹp và to có thể chứa khoảng 500 cuốn, nhưng trong tủ chỉ có khoảng trên 300 cuốn theo sự ước lượng của mình, nên mình hỏi chủ nhân là “đã có người khác được mời xem trước rồi phải không?” Anh ta trả lời là sau khi người anh mất có hai người bạn của ông ta đã ghé và lấy một số sách. Mình cố bình tĩnh để tránh lộ vẻ thất vọng, vì nếu đã có hai người tới trước thì CÓ GÌ HAY HỌ ẴM TRƯỚC HẾT RỒI chứ còn gì nữa. Quả là vậy, trên 300 cuốn sách chả thấy bóng dáng một cổ thư nào, nhưng rồi, ở phía sát vách tủ mé bên trái, mình bỗng bắt gặp quý thư này. Mình lấy nó ra và cho chủ nhân biết là chỉ có cuốn này mình muốn lấy mà thôi, thì chủ nhân đã làm một chuyện rất đáng khen. Ông ta xin lỗi vì mình không tìm được nhiều sách và nói một cách rất dễ thương “bác cất công đi mà tìm được có một cuốn, thôi tôi xin tặng bác để tạ lỗi đã quấy rầy”. Mình giải thích cho ông ta hay là mình luôn muốn đi mua sách, nên không bị quấy rầy gì, và mình là người không thích lấy không một thứ gì từ bất cứ ai và sau đó mình đưa ra 200 đô mít để trả tiền cuốn sách. Chủ nhân không chịu nhận cả 200 mà chỉ chịu nhận một nửa, vì vậy mình lấy cớ là đã lâu chưa ghé Củ Chi nên xin phép đi loanh quanh một chút rồi về bằng xe buýt... và yêu cầu của mình được chấp nhận! Cuốn sách đã đến với mình một cách dễ thương như vậy đó, và khi về, sau khi lướt qua mình mới thấy nó không phải chỉ đễ thương mà là siêu dễ thương nên mới muốn giới thiệu qua nó với quý bạn. Cuốn sách khổ 15x21, dày 256 trang, mang tựa đề là “Nhân vật nổi tiếng, hồ sơ sự kiện” (Famous people factfile) của một nhà xuất bản tên là Kingfisher ở Anh Quốc và được xuất bản năm 2006. Cuốn sách chứa đựng một số tài liệu toàn bằng hình ảnh khá đầy đủ và súc tích về trên một ngàn nhân vật nổi tiếng từ cổ chí kim và được chia làm 10 chương như sau đây: Chương 1.- Nói về các lãnh tụ thế giới từ cổ chí kim khoảng trên dưới 50 người trong đó có 9 người trước năm 1000… Chương 2.- Nói về 33 nhà thám hiểm. Chương 3.- Nói về 57 nhà khoa học. Chương 4.- Nói về 81 Kỹ sư và nhà phát minh. Chương 5.- Nói về 165 nhà văn và nhà cải cách. Chương 6.- Nói về 129 Tài tử sân khấu và Tài tử màn bạc. Chương 7.- Nói về 153 Nghệ sĩ và Kiến trúc sư. Chương 8.- Nói về 177 Nhạc sĩ và nam nữ vũ sư. Chương 9.- Nói về 201 Ngôi sao thể thao. Chương 10.- Nói về 225 Tên tội phạm, trộm cướp. Cuốn sách gồm toàn hình ảnh cho người đọc biết chân dung, các sự kiện liên quan cũng như các nơi chốn đã xảy ra các sự việc liên quan tới các nhân vật được nói tới trong sách. Là người vẫn tự hào là người “chịu đọc” và đã đọc khá nhiều, sau khi “cưỡi ngựa xem hoa”, người viết thấy rằng mình chỉ biết về khoảng 400 trong số khoảng 1200 nhân vật nổi tiếng này. Tuy nhiên, phải nói đây là một siêu quý thư mở mang kiến thức đồng thời giúp mình giải trí khá nhiều khi biết về những chuyện các nhân vật này đã làm... với người đồng loại!
Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI
VŨ ANH TUẤN
NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ
TẬP 2 (tiếp theo số 155) Vấn đề 1: Về nguồn gốc - “On the Origin of Species”. Giải thích nguồn gốc vũ trụ và muôn loài trong đó là một vấn đề lớn, phải giải quyết tận gốc. “Cây có cội, nước có nguồn”, tiếng bình dân nói phải “tìm đến tổ chấy” mới thôi - vật này vật kia biến đổi tiến thoái… chỉ mới là cái ngọn, cái gốc của vấn đề là khởi thủy của muôn loài muôn vật trong vũ trụ này, đó là vật chất: Chất liệu cơ bản của mọi loài hữu hình, không có vật chất thì cũng chẳng có vật nào hữu hình tồn tại, lấy đâu ra cơ sở mà biến hóa hay tiến hóa? Vật chất theo tôi không dễ định nghĩa một chút nào, ngay cả đối với các nhà khoa học. Đại Từ Điển tiếng Việt - do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin - 1999, trang 1804 định nghĩa: “Vật chất là hiện thực khách quan, tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý thức của con người”. Từ điển cho một ví dụ: “Vật chất quyết định tinh thần”, thú thực với bạn đọc, người viết chưa hiểu rõ câu định nghĩa này. Còn câu ví dụ: Vật chất quyết định tinh thần - thì người viết cho rằng vật chất ảnh hưởng tới tinh thần dễ chấp nhận hơn là “quyết định”. Cây viết “bằng vàng” không thể tạo ra một tác phẩm hay. Trong câu chuyện dân gian Lưu Bình và Dương Lễ, thì Lưu Bình được ăn sung mặc sướng, điều kiện vật chất dư thừa, trong khi Dương Lễ là con ăn người ở, được chủ thương cho học hành chắc là trăm bề thiếu thốn. Thế mà kết quả Dương Lễ đậu, Lưu Bình rớt, đâu có phải vật chất dư giả là đương nhiên học giỏi đâu. Người ta thường nói “cái khó bó cái khôn”, đây là ảnh hưởng của vật chất đối với tinh thần, nhưng không phải lúc nào cũng “quyết định”, vì người ta cũng nói “cái khó ló cái khôn”. Anh hùng dân tộc Nguyễn Tri Phương bị Pháp bắn trọng thương và bắt đem xuống tầu chiến, họ chiêu đãi sữa bò, sâm banh… nhưng Nguyễn Tri Phương từ chối hết, kể cả thuốc men chữa trị vết thương, ông đã tuyệt thực cho đến chết. Thử hỏi vật chất và tinh thần, cái nào quyết định cái nào? Nếu chỉ dựa vào phương pháp luyện thú để rồi rút ra kết luận có tính định luật chung cho loài người “vật chất quyết định tinh thần”, thì theo tôi điều đó không thuyết phục mà còn có vẻ hạ thấp phẩm giá con người. Đã gọi là khoa học thì phải thực nghiệm, vậy cứ lấy một đống vật chất không có sự sống, để đó rồi mỗi ngày quan sát xem nó có sinh ra được cái gì là tinh thần không? Nhà bác học Pasteur đã làm một thí nghiệm: đun sôi diệt hết mầm sống một dung dịch nước thịt trong ống nghiệm chân không, sau đó để nguội và quan sát nhiều tháng nhiều năm và kết luận: “chỉ có vật sống mới sinh ra được vật sống”. Tự điển Le Petit Larousse illustré - Nhà xuất bản Larousse Paris 2002 cho ta câu định nghĩa: Vật chất: Matière = Substance particulière dont est faite une chose et connaissable par ses propiétés - Vật chất là một bản thể (hiểu nôm na là một chất liệu) riêng biệt nhờ nó mà một sự vật được làm thành và có thể nhận biết được bằng các đặc tính của nó. Câu định nghĩa có cụ thể hơn câu của Đại Từ Điển Tiếng Việt một chút, nhưng vẫn phải dùng ngôn ngữ triết học mà chúng tôi, những người dân thường chẳng dễ gì hiểu được. Theo các nhà khoa học, ngày nay vật chất hiện hữu ở ba thể: thể đặc (rắn), thể lỏng và thể hơi; và dưới hai dạng: hợp chất và đơn chất. Đơn vị nhỏ nhất của một hợp chất gọi là phân tử, đơn vị nhỏ nhất của một đơn chất gọi là nguyên tử. Các hợp chất đều được kết cấu bằng nhiều đơn chất. Hiện nay trong vũ trụ, các nhà khoa học định danh được hơn 100 đơn chất. Ví dụ: Nước là một hợp chất gồm hai đơn chất H và O theo tỷ lệ H2O, nghĩa là khi tổng hợp 2 nguyên tử H với 1 nguyên tử O, ta có một phân tử nước: H2O. Vật chất nếu chỉ gồm những vật cụ thể như cục đá, hòn đất, ly nước, khúc xương, miếng thịt… thì cũng dễ nắm bắt, nhưng còn có những thứ siêu vật chất, rất khó nắm bắt đối với hàng dân dã như: ánh sáng, điện, từ trường, phóng xạ, X quang… đó cũng là những dạng vật chất - lại còn những thứ vật chất không tồn tại một mình được mà luôn phải dựa vào một vật cụ thể, danh từ triết học gọi là “tùy thể” khác biệt với “bản thể”. Ví dụ: Không có cái tròn, cái vuông tự tại mà chỉ có cái đĩa tròn, cái bàn vuông… Cũng không bao giờ có mầu sắc tự tại: Không có cái đen, cái trắng, cái vàng mà chỉ có tóc đen, mây trắng, hoa vàng, lá xanh… rõ ràng màu sắc là vật chất nhưng ta không thể nắm được cái vàng, cái xanh trên tay. Một ví dụ khác, ta cầm hộp quẹt bật lên, ta thấy rõ ngọn lửa, sờ vào thì thấy nóng, đồng thời có ánh sáng tỏa ra xung quanh, nhưng khi tắt quẹt đi thì ngọn lửa đó đi về đâu? Cục gạch ta đập ra thì còn mớ xà bần, tờ báo ta đốt đi còn lại ít tro… ngọn lửa dập đi, chả còn gì cả ! Lửa là vật chất nhưng không tự tại vì chỉ là “tùy thể”, không tự có bản thể mà luôn phải dựa vào một bản thể khác để tồn tại: 1 thanh củi cháy, 1 hòn than cháy, 1 tờ giấy cháy, 1 tim đèn cháy, 1 luồng gaz cháy. Điều lạ lùng nữa là 1 đốm lửa nhỏ xíu mà hàng tỷ tỷ ngọn nến có thể châm mà ngọn lửa đầu tiên vẫn không nhỏ lại, không vơi đi, trong khi các vật chất khác chia riết chỉ còn Σ (epsilon). Làm sao hiểu được tường tận ý niệm vật chất? Báo Thanh Niên 30/08/2016 (btv Hạo Nhiên): Thiên Hà vật chất tối - Trong một phát hiện tình cờ, các chuyên gia Mỹ và Canada đã công bố một dạng thiên hà chưa từng được tìm thấy trước đó: Thiên hà vật chất tối. Đa số vũ trụ được cấu tạo từ vật chất tối, một dạng vật chất bí ẩn, thậm chí chưa từng được phát hiện và hầu như chẳng tương tác với các vật chất “bình thường” xoay quanh nó. Trong dải ngân hà vật chất tối nhiều hơn vật chất thường gấp 5 lần, tỷ lệ này còn cao hơn nữa trong một nhóm các thiên hà lùn nhỏ. Các nhà khoa học tìm ra một đối tượng bất thường: một thiên hà có cùng khối lượng như dải ngân hà nhưng chỉ có 0,1% năng lực sao như ngôi nhà của chúng ta. Khoảng 99,99% còn lại được làm từ vật chất tối. Đây là đại diện đầu tiên của dạng thiên hà mới (bản chất vật chất tối như thế nào và nó tiến hóa như thế nào? Ai trả lời được?) Đối tượng đang được nói tới có tên là Dragonfly 44, cách xa trái đất khoảng 300 triệu năm ánh sáng. Báo Thanh Niên 05/10/2016 (btv Thụy Miên): Giải Nobel Vật lý 2016 - Giải Nobel Vật lý năm 2016 được trao cho công trình nghiên cứu những trạng thái kỳ lạ của vật chất, từ đó đã mở ra những ứng dụng mới trong nhiều lĩnh vực. Ba nhà khoa học Anh David Thouless, Duncan Haldane và Michael Kosterlitz đã trở thành chủ nhân của giải Nobel Vật lý năm nay nhờ ứng dụng tô pô học, một nhánh của toán học, vào vật lý để giải thích những trạng thái kỳ lạ của vật chất. Thông thường, vật chất tồn tại ở 4 trạng thái là rắn, lỏng, khí và plasma. Tuy nhiên, trong những điều kiện cực nóng hoặc cực lạnh, một số vật chất có thể biến dạng thành những trạng thái bất thường như siêu lỏng, siêu dẫn hoặc màng từ tính. Trong một thời gian dài, thế giới chỉ có thể ghi nhận sự tồn tại của những dạng vật chất này nhưng không nắm được bản chất và đặc tính của chúng… mở ra những chân trời hiểu biết mới về những trạng thái kỳ lạ nhất của vật chất. Đó là lý do tờ The Independent hôm qua gọi họ là “những người vén màn bí mật của những vật chất lạ”. Báo Tuổi Trẻ cuối tuần 15/3/2009, trang 20-21, tác giả Trang Anh (dịch theo Science et vie Junior 12/7) mục 100 kiến thức khoa học cần biết, số (38): “Không ai biết vũ trụ được tạo ra từ những gì”, bên cạnh đó có một hình biếm họa với phụ đề “Tối là năng lượng, đen là vật chất, hừm… mờ mịt là những suy tưởng của ta”. Số (39): Số phận của vũ trụ tùy thuộc vào việc nó chứa gì, nói tới “big bang” vụ nổ lớn làm bung ra vũ trụ - Các nhà khoa học dự đoán sẽ có ngày vũ trụ co lại “big crunch” rồi lại có khả năng vũ trụ đông cứng “big chill”, tiếp theo đó là vụ rách toạc tất cả vật chất “big rip”. Rồi đâu là trung tâm, đâu là biên giới của vũ trụ? Tầm nhìn của con người với sự hỗ trợ của tất cả thiết bị máy móc hiện đại nhất cũng chỉ giới hạn trong khoảng không gian 13-14 tỷ năm ánh sáng mà thôi, ngoài giới hạn đó là gì nữa ai mà hiểu thấu được? Nhưng nếu suy cho cùng ta có thể khẳng định không sai lầm rằng căn cội của thế giới này, vũ trụ này là cái chúng ta gọi là vật chất. Bây giờ bàn tới vấn đề chính yếu của chúng ta và cũng là gốc của Thuyết Tiến Hóa, đó là vấn để nguồn gốc của vật chất. Vấn đề 2: Do cái gì biến hóa ra? Sẽ chỉ có hai câu trả lời: Một của những người duy tâm và một của những người duy vật. Những người duy tâm thì dựa vào niềm tin, vào một Thiên Chúa sáng tạo - Ngài là Đấng toàn năng vô hình, vượt trên không gian và thời gian, chính Ngài đã sáng tạo vũ trụ và thế giới như lời Kinh Thánh khẳng định: “ Tự ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời và đất” (sách Sáng Thế đoạn 1, câu 1), trời và đất là kiểu nói tổng quát, có nghĩa là mọi sự, mọi vật, từ hữu hình tới vô hình như kinh Tin Kính mà những người tin Chúa vẫn tuyên xưng mỗi ngày: “ Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Niềm tin về một Đấng cao cả, chí tôn, tạo dựng mọi loài là niềm tin phổ biến qua mọi thời đại và trên tuyệt đại đa số nhân loại. Đấng ấy, tổ tiên người Việt Nam từ ngày xửa ngày xưa cho tới nay vẫn gọi là Ông Trời hoặc Ông Xanh hay Ông Thiên, Thượng Đế, Tạo Hóa. Bà con ta vẫn thường lập bàn thờ Ông Thiên ngay sân nhà, ngày ngày hoa quả, trầm nhang, cúng vái, nơi cửa miệng đồng bào ta thường nghe những câu đậm niềm tin: “ Trời ơi! Trời sinh, Trời dưỡng; Trời sinh voi, Trời sinh cỏ; Nhờ Trời, ơn Trời; Trời ban, Trời soi xét”… (còn tiếp) Tân Sa Châu, ngày 18/12/2017 Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết (Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)
QUY TRÌNH TU HÀNH
theo CHÁNH PHÁP của ĐẠO PHẬT (tiếp theo số 155) 2. Mục đích và quy trình tu hành của Đạo Phật: Mục đích của Đạo Phật là hướng dẫn cho mọi người cách thức để Giải Thoát khỏi những nỗi Khổ của kiếp sống, cho nên Đạo Phật còn được gọi là Đạo ĐỘ KHỔ. Theo đó, người muốn Thoát Khổ phải tự mình hành theo một quy trình gồm có: VĂN-TƯ-TU, GIỚI ĐỊNH HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO và Những Phẩm Trợ Đạo. 2.1 . Lý do cần VĂN-TƯ-TU Vì thời của Đức Thích Ca tại thế, ngôn ngữ chưa đủ để diễn tả điều Ngài muốn nói, mà việc Tu Phật thì đa phần nói về cái Tâm, là phần Vô Tướng bên trong mỗi con người, nên Phật phải dùng hình ảnh bên ngoài để diễn tả, vì thế rất dễ gây hiểu lầm. Chính vì vậy, Chư Tổ về sau dặn dò người đọc Kinh hay sách vở của Đạo Phật cần phải Tư Duy để tìm ra Nghĩa rồi mới thực hành theo gọi là Văn, Tư rồi mới TU. Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN viết: “Dù có người trong vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính pháp, nhưng nếu không Tư Duy thì trọn không thể được Vô Thượng Bồ Đề”. Bởi vì nếu hiểu sai, thì cho dù có tu hành tinh tấn như thế nào cũng đâu có thể cho ra kết quả đúng được? Đề tài để TƯ DUY là những thứ liên quan đến con đường tu hành: Đó là THÂN, TÂM và PHÁP. Đó là những nơi cần quán sát, vì ràng buộc hay Giải Thoát cũng ở đó. Người tu Phật mà không nhắm vào những cốt lõi này để quán sát, mà đi quán sát mây trôi, lá rụng, nước chảy, hoa tàn v.v… thì Chư Tổ gọi là “Gãi ngứa ngoài giày”, vì không thể đưa đến kết quả tháo gỡ những gì đã ràng buộc để Giải Thoát được. Mục đích của Đạo Phật là để ĐỘ KHỔ. Vì thế, người tu Phật phải Biết nguyên nhân của Khổ, Biết cách thức để Thoát Khổ. Theo Đạo Phật, cái Khổ xuất phát từ cái Thân, nên phải tìm hiểu kỹ về Thân và Tâm. Quán sát Cái Thân, để thấy nó chỉ là sự phối hợp của Nghiệp cộng với Tứ Đại mà thành. Hết Duyên, hết Nghiệp là tan rã, không trường tồn. Thân chỉ do nhóm Tứ Đại hợp lại mà thành, vô cảm giác, không tự vận động được, mà được điều khiển bởi một bộ máy linh hoạt ẩn sâu trong nó. Đạo Phật gọi đó là CÁI BIẾT hay CÁI TÂM. Khi Cái Tâm này còn MÊ LẦM thì thường dắt cái THÂN làm những hành động sai trái để gây tạo Nghiệp xấu. Do vậy, vào tu hành thì người tu bắt buộc phải Tìm, phải Thấy, phải gặp cho được Cái Vọng Tâm, rồi chuyển hóa nó, cho nó quay về với Chân Tâm, hay là CÁI BIẾT SÁNG SUỐT, gọi là “Phản Vọng Quy Chân”. Do đó, “Phản Vọng Quy Chân” không có nghĩa là bỏ đời, Quy Y Phật, mà là bỏ Phàm Tánh, Quy Y với Chân Tánh của chính mình. Hết Khổ gọi là được Giải Thoát. Muốn Giải Thoát thì phải biết điều gì đã ràng buộc. Kinh LĂNG NGHIÊM dùng lời Phật giáo hóa cho Ngài A Nan: “Ông từ hồi nào đến giờ, nhiều kiếp Sanh Tử Luân Hồi cũng vì Tâm và Mắt. Nếu ông không biết nó ở chỗ nào thì không bao giờ hàng phục được phiền não trần lao. Cũng như vị Quốc Vương bị giặc đến xâm lăng, đem binh dẹp trừ. Nếu không biết giặc trú ngụ tại đâu thì không bao giờ dẹp được?” Theo Đạo Phật, tất cả là do cái VỌNG TÂM. Vì thế, đòi hỏi người tu phải Quán Sát, Tư Duy phải tìm cho ra Cái Vọng Tâm để chuyển hóa nó. Chính việc chuyển hóa cái Tâm mới là công năng tu hành, những việc khác như là Ngồi Thiền, Tụng kinh, Niệm Phật, chay lạt v.v... chỉ là để hỗ trợ mà thôi. 2.2 . Mục đích của GIỚI ĐỊNH HUỆ Mục đích của GIỚI là để hạn chế sự buông lung của Thân, Tâm. ĐỊNH, hay THIỀN ĐỊNH được nhiều Giáo Phái, kể cả những người không liên quan đến Đạo Phật cũng dùng. Có người tập trung hơi thở gọi là Điều Tức rồi đưa đến những huyệt vị nào đó để trị bệnh. Những người luyện Yoga cũng dùng thời gian ngồi Thiền để tập trung tư tưởng rồi hướng nó đến những Luân Xa để khai mở. Có người dùng Thiền Định để Tĩnh Tâm. Có người dùng Thiền Định để Xuất Hồn. Phái Tu Thiền thì tập trung tư tưởng để khai mở một đề tài nào đó liên quan đển thắc mắc cần khai sáng trong Đạo gọi là Công Án. THIỀN của Đạo Phật là dừng mọi hành động, suy nghĩ vẩn vơ để tập trung tư duy, tìm ra con đường đưa đến Giải Thoát để thực hành theo. Dù tất cả đã được Đức Thích Ca đã tìm ra và phổ biến rồi, nhưng người đi sau như chúng ta vẫn phải tự tìm để xác tín, không thể dựa vào kết quả có sẵn của Ngài. Bởi vì chỉ có điều nào mình hiểu một cách chắc chắn thì mình mới thực hành một cách nghiêm túc được. Cái Trí sáng suốt để giúp mình tìm cho ra hướng đúng để làm cho đúng gọi là TRÍ HUỆ. Trí Huệ quan trọng cho người tu đến nỗi Kinh Bát Nhã viết: “Tam Thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Có Trí Huệ mới Quán được Tâm. Kinh Tâm Địa Quán viết: “Trong Ba Cõi lấy Tâm làm chủ. Những vị còn ở trong phàm phu địa, không Quán được tự Tâm nên phải trôi giạt trong bể Sinh Tử. Chư Phật, Chư Bồ Tát Quán được tâm, nên qua được bể Sinh Tử, đến bờ Niết Bàn”. Người có Trí Huệ để tự hướng dẫn việc tu hành cho bản thân gọi là Bồ Tát. Người nương Kinh sách hay nghe giảng rồi thực hành theo, không có sự hiểu biết của bản thân thì gọi là Thinh Văn. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA dạy: Người tu muốn đạt kết quả Thành Phật thì phải bỏ hạnh Thinh Văn, làm Hạnh Bồ Tát thì mới Thành Phật được. 2.3 . Về BÁT CHÁNH ĐẠO Trong tất cả các Tôn Giáo hiện đời thì duy chỉ có Đạo Phật là có BÁT CHÁNH ĐẠO. Những Tôn Giáo khác thì đặt trọn niềm tin vào Giáo Chủ. Vì Giáo Chủ toàn quyền quyết định vận mệnh của tín đồ, nên tín đồ chỉ cần giữ những Điều Răn hay Giáo Điều là được rồi. Riêng Đạo Phật thì mỗi người tự làm, tự chịu theo Luật Nhân Quả, Phật không có quyền can thiệp vào quyết định, hành vi của mỗi người. Chính vì vậy, Đức Thích Ca phải hướng dẫn cho tín đồ từ chi tiết nhỏ giúp cho người tu tự cứu lấy bản thân, gọi là TỰ ĐỘ. Chỉ cần sống đúng theo Tám Con Đường chân chính này thì không tạo Nghiệp, không phải đọa thì đâu cần Thần Linh nào Độ cho? Bát Chánh Đạo gồm có: CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY, CHÁNH NGỮ, CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG, CHÁNH TINH TẤN, CHÁNH NIỆM, và CHÁNH ĐỊNH. Nhiều bài khác đã giải thích chi tiết về Bát Chánh Đạo rồi, nên xin tóm tắt: Tám Con Đường Chánh này có thể chia ra thành 3 nhóm: l. CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY, CHÁNH ĐỊNH thuộc về Ý. 2. CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG thuộc về THÂN 3. CHÁNH NGỮ thuộc về KHẨU. Người mà từ suy nghĩ cho tới làm ăn, nói năng, chọn nghề để sinh sống đều chân chính, thì sẽ giữ được THÂN, KHẨU và Ý không bị Tham, Sân, Si lôi kéo tất nhiên sẽ không gây Nghiệp để tự làm Khổ bản thân và những người chung quanh. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc dễ dàng buông xả, người tu Phật cần phải học biết về các Pháp bằng cách TƯ DUY và QUÁN SÁT để Biết bản chất của Các Pháp là không trường tồn. Có Sinh, thì có Diệt, để đừng đeo bám lấy nó mà phải Khổ. Chỉ cần thực hành đúng theo Bát Chánh Đạo thì hiện đời được cuộc sống an ổn, khi chuyển kiếp cũng về nơi tốt đẹp, không cần phải cầu xin Phật nào độ cho hết. 2.4 . NHỮNG NGƯỜI VÀ NƠI CHỐN CÓ THỂ TU HÀNH: Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cõi nước, chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành, hoặc là ở chỗ có quyển Kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc Tăng Phường, hoặc nhà Bạch Y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là Đạo Tràng, các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn” (Phẩm Như Lai Thần Lực tr. 479). Rõ ràng Kinh dạy không phân biệt nơi chốn, miễn là “Thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép y pháp tu hành”. Nhưng không phải dừng ở chỗ biên chép, giải nói, rồi để đó không thực hành. Kinh viết: “Các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà Nhập Niết Bàn”. “Ở đây” chính là ở chỗ “đúng như lời tu hành”, không phải ở nơi Quyển Kinh, hay đầu tròn áo vuông, độc thân hay ở trong Chùa như những người hiểu lầm đã phổ biến làm cho việc tu hành bị đóng khung sau cửa Chùa, không mở rộng cho tất cả mọi người như mục đích của Đức Thích Ca khi khai mở Đạo Phật được. 2.5 . PHẢI NƯƠNG VÀO AI ĐỂ TU HÀNH? Từ khi Y Bát mất dấu, người tu hành không biết nương vào đâu, chỉ biết nghe Thầy nào tu lâu, giảng pháp lôi cuốn, được dư luận đồn thổi thì theo học. Nhưng người đi sau làm sao đánh giá được là Vị đó có giảng đúng Chánh Pháp hay không, bởi họ cũng mang lời Phật hay lời Kinh để bàn sâu, tán rộng ra thêm? Kinh Phật còn được gọi là “Thiên Kinh vạn Quyển”. Người tu từ thời xa xưa đến hiện đời, bất cứ ai hiểu ít, hiểu nhiều, thấy đúng hay chưa... cũng đều có quyền viết rồi in ra và phổ biến. Phật Pháp thì được gọi là “Rừng Phật Pháp”, người chưa biết lối sẽ đi về đâu? Vì thế, rất cần người đi trước đã Chứng Đắc hướng dẫn. Vị Thầy hướng dẫn rất là quan trọng, vì “Chúng Sanh bất định chủng tánh”, học với người có trình độ nào thì ra kết quả đó. Học với người có Chánh Pháp thì họ sẽ được Chánh Pháp, và ngược lại. Kinh VIÊN GIÁC viết: “Này Thiện Nam! Có loại chúng sanh có thể chứng được Viên Giác. Song, nếu chúng gặp Thiện Tri Thức là Thinh Văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu Thừa; còn gặp Thiện Tri Thức là Bồ Tát hóa độ thì chúng thành Đại Thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu Đạo Vô Thượng Bồ Đề thì chứng thành Phật Thừa”. Đạo Phật cho tới nay thì mạnh ai nấy giảng. Ai cũng nói mình mới giảng đúng Chánh Pháp, Chùa nào cũng cho rằng mình Hoằng Dương Chánh Pháp. Nhưng một sự thật mà ai có đọc Chính Kinh mới thấy giải thích, là đâu phải bất cứ ai khoác áo tu hành, hay tu lâu năm, có bằng Phật Học được nước ngoài cấp thì người đó đã giảng đúng Chánh Pháp? Theo lịch sử của Đạo Phật thì chỉ có những vị Tổ được Truyền Y Bát, là người đã Chứng Đắc, có sứ mạng phổ biến Đạo Pháp mới có quyền giảng Pháp. Đó là những người thực hiện Di Ngôn của Đức Phật. Các Ngài mới là những người được giao cho sứ mạng rao giảng, quảng bá Đạo Phật. Lời giảng của các Tổ được chép lại thành 12 Bộ Kinh còn lưu truyền đến nay. 2.6 . VỀ VIỆC TRUYỀN Y BÁT Việc Truyền Y Bát khởi đầu bằng Đức Thích Ca truyền cho Ngài Ca Diếp, Tổ Ca Diếp truyền lại cho Ngài A Nan. Nhưng chỉ khoảng 100 năm sau, khi Tổ Thứ Ba là ngài Thương Na Hòa Tu Truyền Y bát lại cho Tổ Thứ Tư là Ngài Ưu Ba Cúc Đa. Lúc đó Ngài Ưu Ba Cúc Đa mới có 20 tuổi và gia nhập Tăng Đoàn mới có 3 năm. Chính vì vậy mà vấp phải sự phản đối của các Trưởng Lão. Từ đó, các Trưởng Lão tách ra, thành lập Trưởng Lão Bộ, lúc đó gọi là Tiểu Thừa, để phân biệt với những Vị còn lại chấp nhận Tổ mới qua việc Truyền Y Bát thì gọi là Đại Chúng Bộ hay Đại Thừa. Phía Tiểu Thừa từ đó chỉ nhìn nhận có 2 Tổ là Ca Diếp và A Nan mà thôi. Do đó Lịch Sử phát triển Đạo của bên này không đề cập đến những Tổ về sau. Riêng bên Đại Thừa thì các Tổ kế tục nhau. Đến Tổ thứ 28 là Ngài Đạt Ma. Khi Truyền Y Bát cho Ngài thì Tổ trước đã dặn là khi Tổ diệt độ rồi thì sang Trung Quốc mà truyền pháp, nên sau đó Ngài dùng thuyền đi mất 3 năm mới đến được Trung Quốc để tìm người nối truyền. Do đó, phía Trung Quốc tính Tổ Đạt Ma là Tổ đầu tiên, sau đó Ngài truyền cho Tổ Huệ Khả, Tổ thứ ba là Đức Tăng Xán, kế đó là Đức Đạo Tín, tiếp theo là Tổ Hoằng Nhẫn, vị cuối cùng là Lục Tổ Huệ Năng. Nhưng nếu tính theo thứ tự từ Đức Ca Diếp thì Ngài là Tổ thứ 33 và cũng là Tổ cuối cùng được Truyền Y Bát. Sau đó thì vì sự tranh chấp của phe đối lập mà Y Bát phải dấu đi không truyền nữa, làm cho người muốn tu học mất tín hướng, chỉ còn trông cậy vào duyên phận mà thôi. Con đường Truyền Thừa là của Đức Thích Ca lập ra, nhằm để chọn người Chứng Đắc kế thừa để hoằng dương Chánh Pháp, không phải cứ ai tu lâu năm, đọc Kinh hiểu chút gì đó thì có quyền truyền cho người sau được . Trong lúc Truyền Y Bát cho Ngài Ca Diếp thì Phật có dặn dò là việc này nên tiếp tục để Chánh Pháp không dứt diệt. Vậy chúng ta nghĩ sao khi những người xưng là Đệ Tử của Phật lại không chấp nhận Di Ngôn của Ngài? Đương nhiên Đạo Phật không do những Vị Tổ chính thức được Truyền Y Bát phổ biến thì làm sao có được sự hiểu biết đúng theo Chánh Pháp được? Do đó, Đạo Phật lần hồi biến thành Nhị Thừa, Quyền Thừa, không còn là Đạo Giải Thoát mà người thực hành theo đó sẽ được kết quả Giải Thoát hay Thành Phật được. 2.7 . VỀ KINH ĐẠI THỪA Người không hiểu về việc Truyền Y Bát thì cũng không thể nào hiểu giá trị của Kinh Đại Thừa. Họ cực lực phản đối và kêu gọi nhiều người khác theo họ, vì cho Kinh Đại Thừa không phải là lời của Phật mà là của các vị Tổ cách Phật đến mấy trăm năm sau khi Phật nhập diệt, nên khẳng định đó là Kinh Ngụy Tạo. Nói rằng Kinh Đại Thừa được viết sau khi Phật nhập diệt cả mấy trăm năm thì đúng. Nhưng nếu nói đó không phải là lời của Phật thì hoàn toàn sai, vì các Tổ là những người được chính thức nối truyền từ Đức Thích Ca, mà việc được Truyền Y Bát có nghĩa là vị Tổ trước Ấn Chứng cho Tổ sau cũng đã Chứng Đắc, mà người Chứng Đắc chính là Phật đương thời. Trong Đạo Phật, người Chứng Đắc thời nào cũng có sự hiểu biết như nhau, vì: “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”. Các Tổ không những tiếp tục giảng Đạo Phật theo Con Đường mà Đức Thích Ca đã khai mở, mà còn soi rọi rõ thêm những gì mà thời Phật tại thế do không đủ ngôn ngữ để diễn tả nên được cho là “xa kín nhiệm sâu”, bởi càng về sau, con người hiểu biết hơn, ngôn ngữ cũng phong phú hơn. Chính vì vậy, đọc kỹ Kinh Đại Thừa, ta sẽ thấy trong đó Chư Vị Giác Ngộ dặn dò rất cẩn thận. Từ giải thích lý do cần tu đến việc phải Phát Tâm như thế nào cho đúng, cho tới cách thức hành trì, những ma chướng người tu sẽ gặp. Người muốn tu học vô lượng thời sau cứ y theo đó mà hành thì sẽ không sợ bị lạc lối. Tu Phật là để Thành Phật, đâu phải để Thờ Phật? Người không nhìn nhận thời sau Phật cũng có những người Chứng Đắc, Thành Phật, tức là đã phủ nhận lời Thọ Ký: “Ta là Phật đã thành. Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành”. Như vậy cần coi lại sự hiểu biết về Đạo Phật của họ. Phật Pháp đâu có ẩn dấu, tại họ không chịu học để hiểu cho hết, nên cũng không biết rằng Đạo cũng như Đời: Ai học môn nào thì tốt nghiệp môn đó. Phải chăng, về mặt đời mọi người đều nhìn nhận không phải chỉ riêng một mình ông Tổ của Ngành Y là Hippocrate là Bác sĩ, mà tất cả những người học Y Khoa thời nào, khi tốt nghiệp cũng là Bác sĩ, đâu chỉ có mỗi mình ông Hippocrate độc quyền làm Bác sĩ? Trong Đạo Phật cũng thế. ĐẠO tức là con Đường. PHẬT có nghĩa là GIẢI THOÁT. Người cùng đi trên Con Đường Giải Thoát thì cuối cùng sẽ đến mục đích Giải Thoát hay Thành Phật như nhau không khác. Do đó mới có TAM THẾ PHẬT. Tức là Phật Quá khứ. Phật Hiện tại và Phật Vị lai, chớ không phải Phật Quá khứ là Như Lai. Phật Hiện tại là Thích Ca, Phật Vị lai là Di Lặc như nhiều người đã giải thích. Chúng ta nghĩ sao khi Đức Thích Ca đã nhập diệt cả 3.000 năm mà cho đó là Phật hiện tại? “Trừ Tam Tâm” cũng không phải là trừ Tâm Quá khứ, Tâm Hiện Tại, Tâm Vị Lai để trở thành những người lơ láo, mà đó là trừ đi Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si. Bởi người tu cần có Trí Huệ, mà Trí Huệ là sự hiểu biết, linh hoạt, biết phân biệt tốt, xấu, đâu phải tu hành để rồi trừ hết sự hiểu biết, không còn phân biệt xấu, tốt, để trở thành ngu ngơ như cây cỏ vô tri? (còn tiếp) TÂM NGUYỆN Tháng 11-2018
Tranh của cố danh họa Nguyễn Gia Trí
Phụ Bản I
Nataliya Ivanovna Khalampieva
Nataliya Ivanovna Kharlampieva, nữ thi sĩ nhân dân Iakutiya, Chủ tịch ban điều hành Hội các nhà văn Iakutiya, thư ký Hội nhà văn Nga, Viện sĩ Viện hàn lâm Tôn giáo nước Cộng hòa Sakha (Iakutiya) sinh ngày 1 tháng 9 năm 1952 tại làng Magom nước Cộng hòa Xô Viết tự trị Iakutiya. Hoạt động xã hội và sáng tác của Nakytiya Ivanovna nhằm hướng phát triển xã hội, văn hóa và tinh thần các dân tộc nước Cộng hòa xích gần lại và tương trợ lẫn nhau làm phong phú các nền văn học. Bà đóng góp to lớn vào việc xây dựng di sản văn học của các nhà kinh điển của văn học Iakutiya, ủng hộ lực lượng văn học trẻ, giáo dục thế hệ văn học nối tiếp. Bà đã dịch sang tiếng Iakutiya nhiều tác phẩm của các nhà thơ Nga đương đại, cũng như của các nhà thơ Tatarstan, Bashkorfostan, Tshurashya, Daghestan, Ba Lan, Armenia, đã viết nhiều bút ký và tiểu phẩm, nói về các quan hệ văn học Nga - Iakutiya - Akhmatova, L.Gnmilev, V.Shlamre, I.Brodski, E.Evtusenko, A.Voznesenski. Tập sách “Thổ lộ tình yêu” do bà xây dựng đã được giải thưởng văn học mang tên Anton Delvig. Do đóng góp vào việc phát triển thơ ca Iakutiya Nataliya Kharlampieva là người phụ nữ duy nhất được trao vinh dự nhà thơ nhân dân của Iakutiya. Nataliya Ivanovna tác giả 20 tập thơ và bút ký. Thơ bà đã được dịch ra tiếng Nga, Kazakh, Tatar Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Azezbadgang và Việt Nam. Nataliya Ivanovna đóng góp đáng kể vào sự nghiệp quảng bá văn học Iakutiya. Theo sáng kiến của bà tại Iakutiya tổ chức liên hoan thơ quốc tế “Tuyết đậm thuận hòa”. Bà đã tham gia liên hoan thơ quốc tế tại Vacsava, London và Hà Nội: Năm 2016 các tập thơ của bà đã xuất bản bằng tiếng Anh ở London, ở Kazan bằng tiếng Tatariya, ở Ba Cu bằng tiếng Azerbajăng và ở Kưzưl bằng tiếng Tuvin. Nataliya Ivanovna nổi tiếng trong nước Cộng hòa là một nhà báo và nhà tổ chức in ấn. Tác phẩm của mình và cho ra mắt trên báo chí với tư cách phóng viên của báo “Tuyến đường phương Bắc” từng là tổng biên tập tờ báo “Tuổi trẻ”, “Người cộng sản Êdez”, chủ nhiệm phần văn hóa báo “Kưưm”, tổng biên tập NXB sách, phó tổng biên tập và tổng biên tập báo “Sakha Sir” (1990-2012). Năm 1994 nắm giữ việc xuất bản và trở thành nhà biên tập đầu tiên của tờ tạp chí phụ nữ bằng tiếng Iakutiya “Dalbar khotun”. Chín mùa bà đã đảm nhiệm chương trình truyền hình “Aabar balabum” tại Đài truyền hình NVK “Sakha”, từ năm 2015 trực tuyến trên đài phát thanh “Sakha”. Từ năm 2013 đến tháng sáu năm 2017 làm cố vấn văn hóa người đứng đầu nước Cộng hòa (Iakutiya). Nataliya Ivanovna Kharlampieva người được giải thưởng văn học “Alash” của nước Cộng hòa Kazakhstan (1998), giải thưởng báo văn học Nga (2003) mang tên Aleksandr Tvardovski Hội nhà văn Nga và tỉnh Smolen (2003). Năm 2015 theo lệnh của Tổng thống Aleksandr Putin bà được tặng huy chương Aleksandr Pushkin. THÚY TOÀN
TIẾNG NÓI THÂN THƯƠNG
Nataliya Ivanovna Kharlampieva (Gửi con gái) Ở đời còn muốn có Những gặp gỡ mặn mà, Hãy trau dồi ngôn ngữ Của người khắp gần xa Của Pushkin tiếng Nga, Mênh mông và vĩ đại. Cả tiếng Anh văn phong đâu ra đấy, Nó nói cho con thấu hiểu Sechspia Nhưng con hãy nói bằng tiếng nói Iakutiya, Iakutiya, Iakutiya! Về cái điều thiêng liêng nhất Bằng tiếng nói của mình, tiếng nói chỉ có một, Hiện đại và thân thương, Nói về một điều! Về tâm hồn mình, về hạnh phúc, về tình yêu, về dục vọng riêng thầm Một nhân dân có tiếng nói riêng chuyện đâu đơn giản Trong đó là biểu tượng nòi giống Trong đó là trí tuệ cả một kho Là rừng taiga xao động rầm rì, là nước suối, nước hồ. Tiếng nói thân thương gần gũi Giữ gìn con vượt qua cơn đau khổ Giúp cho con, bằng lời ca mách Cho con đường đi tới nơi xa. Thúy Toàn dịch
Triết lý về DẠI KHÔN
1. Nhà thơ Tú Xương (Trần Tế Xương) (1870-1907) Nhà thơ trào phúng, Tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5/9/1870 ở làng Vị Xuyên, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông mất ngày 29/1/1907.
Bài DẠI KHÔN của Tú Xương
Thế sự đua nhau nói dại khôn Biết ai là dại biết ai khôn ? Khôn nghề cờ bạc là khôn dại Dại chốn văn chương ấy dại khôn Này kẻ nên khôn đều có dại Làm người có dại mới nên khôn Cái khôn ai cũng khôn là thế Mới biết trần gian kẻ dại khôn. Bài thơ Đường này rất độc đáo là vần của bài thơ chỉ một từ “khôn”. Đó là dụng ý của tác giả mà rất hay về ý nghĩa triết lý chuyện dại khôn trên đời. Tác giả Tú Xương đã gói gọn trong tám câu thơ rất dễ hiểu về quan niệm dại khôn thế nào cho đúng và phải biết mình, biết người. Cần nhớ rằng, không thể chỉ biết mình khôn, còn người ta dại và ngược lại, không để mình cứ khôn mãi, còn người ta thì dại hoài! Đồng thời mọi người phải biết đối nhân xử thế dại khôn cho hợp lý mới xứng đáng là người biết dại khôn. Điều này không phải dễ! Không phải ai cũng làm được! Phải chú ý rút kinh nghiệm và chịu khó học hỏi trong thực tế cuộc sống mới có thể vận dụng dại khôn thành công. 2. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) Hiệu là Bạch Vân cư sĩ , được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam với Sấm Trạng Trình . Ông cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.
Bài DẠI KHÔN của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ở đời có dại mới nên khôn Chớ dại ngu si, chớ quá khôn Khôn được ích mình đừng để dại Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn Khôn mà hiểm độc là khôn dại Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn Chớ cậy mình khôn cười kẻ dại Gặp thời dại cũng hoá nên khôn. Luận về Dại - Khôn Có câu nói: “Cái khôn của con người không phải tính bằng việc hơn thua bao nhiêu tuổi mà nó nhìn xoáy vào chiều sâu cảm nhận của mỗi người, cách nhìn sự việc và xử sự nơi cuộc sống. Có những kẻ sống gần trăm năm mà tưởng chừng như đã chết từ thuở lọt lòng”. Câu châm ngôn này (châm: cái kim châm cứu - châm ngôn: câu nói hướng dẫn về cách sống) nhưng quả thật nó ám ảnh ta rất nhiều. Vì ta cho rằng bất cứ ai cũng không muốn mình trở thành người dại. Nhưng để biết thế nào là “khôn” thì chẳng dễ dàng gì. Và sự ám ảnh trên không phải vì muốn thể hiện mình… “khôn” mà cốt chỉ cố tránh sao cho đừng có “dại” nghĩa là lại lấp lửng ở cái khoảng “dại và khôn”. Khôn thì cũng có nhiều cái khôn. Mà ta sợ nhất cái câu người ta “khen”: “mày khôn lõi lắm”… nghe không biết là khen hay chê, nói thật lòng hay mỉa mai bỡn cợt. Một kẻ dùng hai từ “khôn lõi” cứ làm tôi liên tưởng đến cái dáng vẻ nhỏ thó, loắt choắt với cái cười ranh mãnh → dạng này cũng cỡ ớt hiểm chứ chẳng chơi, nhỡ mà đụng vào có như ong chích thì khốn. Vì thế khi ai đó bảo ta “khôn lõi” lại thấy sợ nổi da gà. Cái khôn nản hơn là… khôn dại, khôn vặt. 3. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) Hiệu là Hy Văn , Ông quê làng Uy Viễn, Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1819 khi đã 41 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ở trường thi Hương trấn Nghệ An. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca. Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…
Bài ca “Ngất ngưởng”
Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng. Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông (tỉnh Hải Dương) Gom thao lược đã nên tay ngất ngưởng . Lúc bình Tây, cờ Đại tướng, Có khi về, Phủ doãn Thừa Thiên... - Nguyễn Công Trứ với bài ca “Ngất ngưởng” tỏ rõ chí khí với Dại Khôn sống ở đời : Ta có thể hiểu “ngất ngưởng” là ở vị trí cao, nếu không muốn nói là cao nhất. Người ta hay nói cao “ngất ngưởng” là vì vậy. Nguyễn Công Trứ cũng đã nói rõ cái giới hạn đó. Sinh thời ông luôn khiêm nhường, không bao giờ tự nhận mình tài hoa, thanh lịch mỗi khi có người khen ông. Một lần trà dư hậu tửu, khề khà ông nói với bạn trong tiệc rượu: “Tôi không sinh ra ở Thăng Long, cũng chả thanh lịch, nhưng giờ tôi làm quan ở đây, thế có được coi là người Tràng An không nhỉ?” 4. Phùng Quán quan niệm về Dại khôn Phùng Quán (1932-1995) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc chiến tranh Đông Dương và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác. Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe… Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà Nội. - Năm 2007, ông được nhà nước “truy tặng” Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật”. Ba phút sự thật không phải chỉ ngắn ngủi để người đọc có thể đọc trong ba phút, cũng không xuề xòa hay tương đối như cái cách người ta vẫn hay nói đến sự thật. Ba phút sự thật - thật đến trần trụi, gai góc và đau lòng. Trong sự thật ấy có một triết gia kỳ quặc, cô độc trong căn hộ bề bộn chỉ mải lo cho những vấn đề về con người và triết học mà quên béng đi thực tại, cũng quên luôn cả cơm áo gạo tiền hay danh vọng, địa vị. Đến nỗi cho đến lúc chết, hàng xóm của ông vẫn chẳng tin ông là người được truy điệu mà tivi đưa tin. Trong sự thật ấy có một nhà thơ trong buổi kháng chiến nghèo khổ bộn bề đã đứng thẳng lưng, ngẩng cao đầu, can đảm, quyết liệt chống lại hiểm họa tham nhũng tàn phá đất nước. Ba phút sự thật không dành cho ai muốn tìm đến những trang viết hào hùng trong sáng như Tuổi Thơ Dữ Dội, cũng sẽ không dành cho ai muốn tìm những “sự thật” để yêu hơn cuộc sống này. Phùng Quán viết bằng trải nghiệm của một đời lính, một đời văn - một đời vất vả. Thấp thoáng trong Ba phút sự thật có những khoảnh khắc của một thời thiếu niên trong sáng chỉ biết cống hiến hết mình cho cách mạng, nhưng rồi nó chỉ thoảng qua để làm nền cho những hồi ức buồn đến ám ảnh của chiến tranh - như chính Phùng Quán nói, Tuổi Thơ Dữ Dội là bản di chúc của ông. Nhà thơ Tố Hữu đã nói ngay trong chương đầu tiên của Ba phút sự thật. “Thằng Quán nó dại… mà cậu cũng dại…” (nhà thơ Tố Hữu là cậu của nhà văn Phùng Quán). Thì đấy, “Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần”. Ba phút sự thật là tập di cảo, là những gì còn lại của một người tài hoa nhưng đã “lỡ dại” mà chọn nghiệp văn chương. LỜI KẾT Quan niệm dại khôn thế nào cho đúng và phải biết mình, biết người. Cần nhớ rằng, không thể chỉ biết mình khôn, còn người ta dại và ngược lại, không để mình cứ khôn mãi, còn người ta thì dại hoài! Đồng thời mọi người phải biết đối nhân xử thế dại khôn cho hợp lý mới xứng đáng là người biết dại khôn. Điều này không phải dễ! Không phải ai cũng làm được! Phải chú ý rút kinh nghiệm và chịu khó học hỏi trong thực tế cuộc sống mới có thể vận dụng dại khôn thành công. PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo - Internet)
Hình bóng người xưa
CỤ HUỲNH THÚC KHÁNG một nhà ái quốc: MỘT NHÀ BÁO CHÂN CHÍNH Trong số những nhà Cách Mạng ái quốc lão thành cận đại, có cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cho đến nay thiết tưởng danh hiệu đáng kính mến Huỳnh Thúc Kháng đã khắc ghi đậm đà nơi lòng ngưỡng vọng của chúng ta. Cũng như thân thế của cụ, tinh thần cùng đức độ và thành tích đấu tranh ái quốc của cụ, hẳn chúng ta chẳng còn lạ gì. Vậy hôm nay xin hãy khoan đề cập mấy phần vừa kể mà chúng tôi chỉ xin nhắc đến vài nét về phạm vi “làm báo” của cụ… Ngày trước cụ Huỳnh chủ trương báo Tiếng Dân. Mặc dù nằm gọn trong tay cường quyền thực dân Pháp nhưng cụ Huỳnh đã làm cho báo Tiếng Dân xứng đáng là một cơ quan ngôn luận, đứng đắn, nhiệt thành, đúng là tiếng của dân, ý nguyện của dân… Trên báo Tiếng Dân, cụ Huỳnh đã viết nhiều bài xã thuyết sắc bén chính xác, từng gây cảm kích sâu xa cho độc giả, đồng thời, đó cũng là đuốc soi đường dẫn lối cho quốc dân cho lắm nhà hoạt động chánh trị thời ấy. Dưới chế độ cai trị của Pháp mà cụ đã sử dụng được ngòi bút đến như thế thì quả là can đảm, vừa tài tình vô cùng vậy. “Nhà nước” Pháp cố đưa cho cụ cái ghế nghị viên hội đồng dân biểu để mong bóp méo việc làm báo của cụ, nhưng cụ đã xoay lưng ngoảnh mặt, lại đấu tranh ngôn luận mạnh hơn. Và với cái ghế nghị viên dân biểu kia, thực dân muốn cụ đừng nói lên điều gì cho dân thì bằng đường lối báo chí, cụ lại làm cho tờ Tiếng Dân luôn là tiếng kêu ca, lời ta thán của quốc dân! Có lần cụ Huỳnh Thúc Kháng đã dựa vào báo Tiếng Dân để nhân danh một cơ quan ngôn luận chính thức đứng đắn của dân chúng Việt Nam mà thẳng thắn gởi thư ngỏ cho chánh phủ bảo hộ, trình bày tình hình đất nước và đòi hỏi quyền lợi cho dân Việt. Bọn thống trị Pháp rất “khổ tâm” về vụ nầy nhưng khó làm rắc rối gì được. Thêm một đòn đau nữa mà cụ Huỳnh đã nện vào uy quyền thực dân Pháp, bằng đường lối báo chí vậy. Sau thời gian làm báo, cụ Huỳnh đã can cường làm đến tối đa trách nhiệm của người cầm bút, trong hoàn cảnh khắc nghiệt, giữa sự bao vây, khủng bố thường trực của bạo quyền. Cụ đã dám viết nhiều sự thật, lắm lẽ phải cho đồng bào, tổ quốc mà chẳng ngại sợ bất cứ tai họa nào có thể xảy đến cho mình. Làm một ký giả như cụ, quả là cao cả, hiếm có trong thời buổi đầy dẫy chướng ngại, khó khăn hiểm nghèo. Ôi; cụ Huỳnh, một người cầm bút phi thường, một gương sáng chói! Mấy nét trên, mặc dù đã thừa chứng tỏ cụ Huỳnh Thúc Kháng là một nhà báo chân chính nhưng chưa thể hiện đầy đủ về quãng đời làm báo của cụ, vì mấy nét trên chỉ là một phần nào của toàn bộ mà thôi chúng tôi tin sẽ có dịp trở lại vấn đề nầy với những phần đặc biệt về cuộc đấu tranh yêu nước của cụ. ĐỖ THIÊN THƯ st.
Tình đất
(tiếp theo số 155) Tôi đi xăn xái qua nhà thằng Hai Lé, băng ngang ngã giếng nước. Khu trồng bông vạn thọ có ánh sáng leo lét, chắc là tụi nhỏ tụ tập bài bạc gì đây. Giọng con Cúc, từ đây tới đó cũng xa xa, tôi nghe tiếng được tiếng mất: - Ai đi coi cà bơi như thằng cha cậu Năm. Yên lặng một lúc. Nếu tôi đi thẳng con đường mình đương đi thì không đụng tụi nó nhưng tiếng xầm xì kế tiếp làm tôi tẽ về phía đó. - Che đèn đi. Thậm cấp, thậm cấp, chí nguy, chí nguy! - Đừng có mời thằng chả lại à nghe. Của đâu! - Cha! Tao thấy mầy ưa cười duyên với thằng chả lắm mà. - Xì! Thằng chả đảo nhãn tao chứ bộ. - Im! Vậy là dưới mắt tụi nó tôi không đáng một đồng xu ten. Tụi nó kêu tôi bằng thằng cha, thằng chả. Tôi đi cà bơ cà bơi, thất tha thất thểu. Chắc là kết quả của mấy trận bài trắng đêm mệt mỏi thêm buồn sạch túi. Tụi nó không muốn nói chuyện với tôi. Tôi để ý con Cúc. Con nhỏ nầy cũng biết. Mấy thằng bạn nhỏ xíu mà cũng biết muốn vợ của nó cũng biết. Con Cúc nói tới tôi bằng một giọng khi dể như mắc cỡ vì chuyện tôi thấy nó nhỏ thó lại có duyên ngầm nên phải lòng thầm hơn mấy tháng nay. Điều khiến tôi sượng trân muốn chết đứng là nó hay nói huỵch tẹt tôi đảo nhãn nó. Con của người ăn người làm mà trổ mòi thì coi sao được. Nó lại mới có mười sáu tuổi chớ mấy. Ba bốn năm trước còn bận quần xà lỏn đeo chưn đeo tay tôi chớ đâu. Giờ nó trổ mã mình đem về làm vợ cũng được. Cho bận quần áo đẹp đẽ lụa là thì ăn đứt mấy cô ở chợ nữa là khác. Không chùi để vậy lưu ly. Chùi ra tỏ rạng khác gì thủy tinh. Cái môi vảnh vảnh, cặp mắt ướt ướt đó đem về cầu một ngày đo rún ba bốn lần mới đã. Nhưng mà phải có bỏ trầu cau đàng hoàng, cưới hỏi chớ không thể lửa rơm, mèo chuột. Tôi còn tính là con số đề nuôi mười ngày nay mà trúng thì tôi đưa cho ông Bảy để ông uốn ba tấc lưỡi Tô Tần giùm. Gì chứ chuyện nói ra nói vô để dựng vợ gả chồng cho thiên hạ, ông này ổng thích lắm. Thấy hai đàng hợp nồi hợp ơ là ổng đốc vô liền. Thêm nữa, tình thầy trò mà. Hồi nhỏ tôi theo ổng để học mót mấy câu ca giờ nầy cũng còn xài được khi có tiệc tùng. Con nhỏ mới lớn, nhà nghèo, chắc cũng không có gì khó khăn. Cưới rồi lo tu tỉnh làm ăn, không theo đường cũ “ đùng đùng ngựa chạy qua truông, mãn mê cờ bạc luông tuồng bỏ em”. Vậy mà coi bộ nó chê. Cái thằng Thìn nhỏ hơn nó hai ba tuổi, cứt mũi đầy, đầu cổ lúc nào cũng chôm bôm như ổ quạ, tay chưn dơ hầy, cái mình dài sọc mà còn bị đòn liền xì vậy mà coi bộ khắn khít với nó. Cha! Thèo lèo cứt chuột! Cha! Trà quế nữa. Mấy thằng khác có mặt cho rậm đám, chỉ lo ăn thôi đâu biết bí ẩn bên trong, vô tình làm nhưng làm nhị cho tụi nó liếc qua liếc lại, nỉ non đêm vắng tình dài, cười cợt, mùi mẫn. “Bụi cỏ lau khô sầu ai dã dượi, thỏ non núp lùm nầy chờ đợi bóng trăng non”. Vậy là tôi đã thua thằng nhỏ nầy. Thua đau đớn trước khi xáp trận. Tưởng là tiếng cậu thiên hạ kêu ngọt sớt mỗi ngày là ngon. Tưởng là con ông chủ vườn có riêng hai cái xe ngựa với bốn con ngựa là ngon. Ai dè tôi bị xô chỏng gọng. Tụi nó tình tang trước mặt mình mà mình không dám hó hé. Tôi bước tới, sửa giọng tỉnh rụi: - Chào mấy đứa! Ăn Tết sớm vui hé! Hết cả bọn làm thinh, một lúc sau con Cúc lên tiếng: - Tụi nầy tính ăn thèo lèo cứt chuột tán dóc chờ năm mới. Tôi giễu để làm thân: - Nói chuyện đời cho vui chớ tán dóc khỉ khô gì. - Con Cúc nói chuyện đời còn tụi tôi hết thảy đều tán dóc cho vui chớ biết gì chuyện đời mà nói cậu Năm? Tôi vừa làm người lớn vừa làm thân: - Mấy đứa tiếp tục ăn uống đi. Cứ tự nhiên. Đêm 29, đèn trứng vịt của bác Bảy ở ngoài trời coi bộ không kham, tôi nói: - Đèn lu quá he! Thìn sao mầy không vô lấy cái đèn dầu trong phòng tao đó cho nó sáng? Thằng Thìn câu mâu xa gần theo kiểu ông già tía nó: - Có trăng kia đèn nầy mới lu vậy chớ. Cậu cho trăng luồn đám mây thì đèn nầy cũng tỏ ác. Thằng lừng quá, nói kiểu lưỡng ước khó bắt bẻ nhưng mà tôi hiểu, đêm hăm chín làm gì có trăng? Con Cúc lớn họng chọt ngang như để cứu bồ: - Sao tụi bây tham ăn quá vậy, không đứa nào mời cậu Năm hết? Ê hề nè đâu sợ hết. Hai ba đứa cùng nhao nhao: - Cậu Năm là người lớn đâu thèm ăn mấy món nầy của tụi mình. Khỏi mời. - Cúc, mầy ‘tội nghiệp’ thì mời đi. Tôi ngó con Cúc làm thinh, ‘dầu đói giả no, dầu khôn giả dại đặng dò ý em’. Con nhỏ xí dài, không biết bất bình vì nguyên câu nói hay vì không thèm mời. Tôi tự nhiên rót cho mình một ly nước. - Uống ly nước rồi tôi đi, không ăn ngọt đâu. Tôi lần khân vì muốn ngó mặt con Cúc cho đã. Dưới ánh đèn chao chao cặp má bánh bầu của nó càng thêm mờ ảo. Môi nó tươi ướt thấy muốn cắn. Vậy mà nó cứ bơ bơ cười nói với mấy đứa kia coi như không có tôi ở đây. Phải nó cười với tôi một cái chắc thế nào đêm nay tôi cũng gom sòng. Vậy mà… ‘Tiếc công se chỉ uốn cần, chỉ se chưa đặng cá lần ra khơi’. Tôi hớp đại đùa ly nước để xuống, tính nói lời từ giã. Một đứa nào đó hình như là em thằng Hai Chí, lúc sau nầy tụi lóc cóc tấn lên tôi biết mặt mà không nhớ hết tên, lên tiếng: - Ê Cúc! Bữa hổm mầy đi mua thuốc dưỡng thai Nhành Mai chi vậy, bộ má mầy sắp có em hả? Con nhỏ xảnh xẹ: - Mua cho chị mầy. Chị mầy lùi tôm thịt, có con chuột Tàu trong bụng. Thằng kia coi mòi không ngán, nó dương Đông kích Tây: - Hay là mầy mua cho bà Tư Lé (bà già nầy thường phụ với con Cúc cắt cỏ cho tôi để kiếm tiền thêm). - Đừng nói xàm, bả già rồi, mua ba thứ đó để tế tổ mầy chứ làm gì? - Vậy thì mua cho mầy rồi. Có cậu Năm đây luôn nè, chịu thiệt đi tụi tao tha. Tôi xây xẩm thiệt tình, tụi nhỏ leo lên đầu cha tôi ỉa xuống khi nói câu đó. Tôi lạnh lùng: - Tôi không phải là người để mấy em giỡn nha, đừng được mợi làm tới. Tôi buồn thiu luồn trong mấy luống bông lài băng qua đường. Mình mẩy không rêm mà nghe bần thần khó chịu như muốn bịnh ngang xương. Rõ ràng. Mít đặc cách mấy cũng biết huống gì tôi, tôi rành sáu câu tụi nó quá. Tụi nó nói mò mà ám chỉ tôi khoái hay tằng tịu với con Cúc. Chưa ăn mà chịu tiếng oan rồi. Cái con quỷ đó biết đâu được. Thứ đồ con gái mới lớn rượn đực dàng trời. Bộ xà nẹo của nó với thằng Thìn mà không có “lang vân” thì cũng như lên võng không đưa lên đu không nhún. Thôi bỏ, kiếm mối khác, xa xa vậy mà khỏi bị biết tẩy khó lòng. Thìn tao nhường mầy đó. Chén kiểu ai thèm giành chỗ với chén đá. Cúc ơi, “bần gie đơm đớm đậu sáng ngời, lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên”. Nhà thằng Hai Chí treo đèn măng-xông sáng trưng đằng xa ngó cũng thấy, khác với ngày không có tay nhà nó đốt đèn con cóc lù mù lờ mờ như ma trơi. Chắc thế nào đêm nay cũng thua không còn tấm da mẹ đẻ. Ra ngõ gặp gái là một. Người tình ngó lơ là hai. Thiên hạ xỏ xiên là ba. Vậy mà sao tôi cũng vẫn xâm xâm đi tới vựa củi chớ? Thần cờ bạc linh thiệt. Lậm vô rồi không biết có ngõ bước ra. Đó là câu nói tôi nói với mình không biết bao nhiêu lần sau mỗi trận bạc bài. *** Cô Út nhẹ nhàng giũ mấy giọt nước sau cùng còn sót lại trên từng trái cây khi từ tốn xếp thứ tự trên cái dĩa quả tử. Cái dĩa lớn xộn gần bằng cái mâm thau mà cũng còn coi bộ chật. Ba nải chuối sứ còn xanh mởn để dưới chót quây vòng gần hết dĩa, còn chỗ trống cho trái dừa… Rồi mấy thứ khác chất chồng lên theo: cam, quít, mận, bưởi… Cô chăm chú, cân nhắc kỹ từng chỗ cho mỗi trái như khi cầm vòi tưới nước mỗi sớm mai. Nặng tay, bông rụng, ẩu tả gập ghềnh, cây trái đổ lăn cù từ trên bàn thờ xuống. Nhà không có con nít mặc dầu, nhưng mà cô biết tánh anh mình, ngang tàng, ăn đồ trên bàn thờ là thường. Ảnh bóc một trái quít hay một trái cam lủng một lỗ trên dĩa quả tử thì cũng được đi, có khi cả đống cây trái theo nhau lăn xuống. Cô nói với má con Cúc đương đứng xớ rớ đợi chủ sai biểu sau khi đã quét láng bộ ngựa. - Dì Tám coi được không? Nhờ thằng Thìn hồi sáng đi chợ mua về hai chùm sung nên màu sắc cũng nhịp nhàng mà lại thêm ý nghĩa. Hai cái dĩa bàn thang đựng trái cây còn không hết. Tôi tính chiết ra một mớ đựng đỡ trên cái dĩa chưng để tối nay cúng trời ở ngoài bàn ông thiên. Ba mươi rồi. Dì thấy tôi tính có phải không, nải chuối sứ nầy cuối quài nên nhỏ để cúng bàn ông thiên cho rộng chỗ. - Năm nay chắc xóm Vườn Lài mình làm ăn khá. Cây sung chỗ hẻm đâm ra miệt trường mù trổ trái quá xá cỡ, che hết thân cây, phủ kín gốc cây. Dòng sung trái trổ trên thân, biết là vậy rồi mà dòm cũng còn thấy lạ. - Cô Út nói tôi mới nhớ, tháng trước đi qua đó, dòm sung rụng đầy sân, ước phải chi gần Tết xin ông chủ mấy chùm về chưng ba ngày Tết. Cô đưa trái dừa cho người giúp việc. - Dì Tám đem ra sau vạt mặt giùm tôi trái dừa nầy. Để nguyên vậy cúng ông bà không hưởng được. Anh Năm giống hịt như ông già tôi. Nhờ chút mà ảnh cứ cãi nói là cúng thì cúng vậy chứ ông bà nào ăn. Vạt lớp vỏ cứng chừa lại lớp cái để che không thôi để trên bàn thờ ngã đổ. Cô cười nhẹ: - Sự vong như sự tồn. Người chết cũng như người sống, mình ăn uống được thì ông bà mình ăn uống được. Dì Tám cười cười đi ra nhà sau. Tánh đơn giản dì không thể quả quyết ai đúng ai sai, vạt mặt thì vạt, không vạt thì thôi, chưa bao giờ dì nghĩ tới chuyện ông bà có hưởng hay không hưởng. Đưa trái dừa đã vạt xong xuôi cho cô chủ dì nói như một nhận xét: - Nhà chỉ còn có cô với cậu Năm mà coi bộ ý kiến anh em chỏi như mặt trời mặt trăng. Cô Út chùi chùi trái quít đương cầm trên tay lau vô cái khăn lông, trả lời hiền từ: - Ừ! Tánh ảnh vậy đó. Nói lấy được, bất kể. Ai mà không biết thì tức chết. Mà biết tánh ảnh thì thôi bỏ qua. Cãi lẫy ích lợi gì đâu? Chín bỏ làm mười cho êm. Máu huyết không, ai vô đó? - Cô được nết quá nên mới nói vậy chớ cậu nói nhiều câu tôi là kẻ ăn người làm mà nghe còn muốn nổi máu sản hậu lên. Dì ngó chung quanh, lấm lét: - Đàn ông con trai gì mà… Hỏng bằng cái móng chưn cậu Tốt. Người ta nho nhã, biết phải quấy. Tiếng Tây tiếng u bật rót rót… Cô Út để trái quít chót lên dĩa, bước thụt lui một bước ngắm nghía xâm xoi công trình của mình rồi chuyển đề tài: - Dì Tám nghĩ sao? Hay là tôi để mấy trái quít phía bên nầy đẹp hơn? Người đàn bà cười cười bối rối: - Cô Út nhè tôi người mù mà hỏi đường. Tôi thấy xếp sao cũng đẹp hết. Cô có hoa tay chớ đưa tôi, tôi rị mọ cầu tới mai mới rồi mà còn dị hợm lắm. Tôi có thử làm rồi. Dì Tám ra sau nhà bếp, lấy cây chổi trở ra phía ngạch cửa quét nhà. Quét ngược từ ngoài cửa vô trong, gom rác lại thành đống ở khạp gạo, khi nghe tiếng cô Út kêu nhờ giúp một tay. - Biết tánh cô kiêng cữ tôi đâu dám quét nhà ra ngoài. Phải quét trở vô. - Có kiêng có lành. Cãi ông bà đâu ích lợi gì.- Cô đổi giọng vui vui, - Dì Tám coi nè, thằng Thìn bị bà nào ngoài chợ gạt bán cho hai trái mãn cầu Xiêm tháp bình bát mà bả nói ngọt thanh. Thứ nầy tốt mã nhưng rã đám. Lạt nhách, rẻ mạt. Người đàn bà mỉm cười không ý kiến. Hai người hè hụi khiêng dĩa trái cây bự xộn để lên bàn thờ. Cậu Năm ngoài cửa xăm xăm bước vô. - Ha! Đẹp dữ ha. Hai người có hoa tay dữ. Để trên bàn thờ dầu ông bà không muốn ăn cũng bắt thèm. Cậu bóc một trái quít ngon nhứt. Hai ba trái để gá ngỡi lên trên lăn đùn xuống. Cậu chụp lượm lia lịa rồi đưa lại cho em, cười cầu tài: - Xin lỗi nhe. Bóc rồi mới nhớ nhà chưa cúng. Thôi coi như khi đi chợ không có mua trái nầy đi. Dì Tám Sanh dọn lẹ xung quanh gọn ghẽ rồi bưng mớ dĩa dư ra ngoài sau bếp, thúc thúc làm chuyện gì đó rồi ở dưới đó luôn. Thấy cô Út làm thinh, cậu Năm đánh tan không khí đông đặc giận hờn. - Cúng kiếng là để tỏ bày lòng thành với người đã khuất mặt. Cúng kiếng giỗ quảy là để nói với bà con chòm xóm chung quanh là mình cũng không đến nỗi bỏ phế hương tàn khói lạnh bàn thờ ông bà chớ ông bà nào bắt mình phải cúng mấy trái quít, mấy trái cam đâu. Cô Út thấy phải không? Cô Út cười gượng: - Mấy chuyện đó thì khó nói lắm, làm sao biết trúng thật. Mà bữa nay sao anh về sớm quá vậy. Bộ ba mươi chạy không có khách sao? - Trời chưa đứng bóng thiên hạ đã rút vô nhà hết. Đâu có ai mua bán gì nữa. Út… cho tao mượn 500 ăn Tết coi. Năm nay tao không có cắc nào hết. Xe cộ ế quá. Lại phải đóng 2, 3 cái hụi chết. - Anh giỡn hoài. Tiền đâu em có. Bán hết lứa bông rằm tháng chạp, bán luôn lứa bông Tết mới được 800 trả tiền công, tiền phân, tiền chạy thuốc cho tía, tiền nợ tía mượn hồi đó, còn chút xây xài trong nhà. Tiền đâu mà đưa cho anh 500? - Tao mượn rồi tao trả chớ bộ. - Anh trả. Hồi đó tới giờ anh trả mưa mứa, đồng lặn đồng mọc, đưa anh bao nhiêu tiền nát bét hết trơn lấy lại nguyên được đâu. Hai năm nay đâu để dành được cắc nào. Nhiều khi tới tháng còn không có tiền trả cho ông Bảy với dì Tám. Người ta kẻ ăn người làm mà mình thiếu, mắc cỡ thấy mồ. - Mầy dài dòng quá. Bỏ cái chuyện người ăn người làm qua một bên đi. Có, đưa tao mượn đỡ 300 ra ngoài ngày tao rán chạy xe thêm tao trả góp. Một tháng thì hết chớ gì. Tao nói danh dự đó. - Còn có trăm rưởi. Anh lấy thì lấy. Không thì thôi. Anh đem bán tui cũng không có xu nào nữa đâu. Im lặng ngột ngạt đâu chừng mấy tíc tắc đồng hồ. Rồi có tiếng cười nịnh cà-hệch, cà hạc, giả lả, tiếng thở ra, tiếng đếm tiền nho nhỏ giọng nghẹt mũi, tiếng tiền mới xột xoạt. Khuôn hình người đàn bà ngồi thẳng lưng trên cái ghế bành tượng, hai bàn tay để trên chỗ gác tay, xòe đủ mười ngón với ba cái cà rá cẩm thạch, mấy sợi dây chuyền dài phủ gần hết bờ ngực, có khuôn mặt thiệt phước hậu ở giữa bàn thờ dường như nhăn mặt khó chịu và hình như có nước mắt long lanh hoen mi. *** Ở đời có nhiều chuyện tức trào máu họng, bởi vậy tôi hiểu như đi guốc trong bụng mấy ông tướng trong truyện Tàu tại sao lại tức ói máu ra cả chậu rồi ngủm củ tỏi. Nhiều khi tôi cũng muốn được như ông Châu Do thiên sanh Do hà sanh Lượng ọc ra một thau rồi thẳng cẳng đi luôn cho khỏe. Khỏi khổ. Khỏi lo. Khỏi nhục. Ai đời rớ đâu thua đó, làm gì cũng hư cũng trật. Ông già tía ổng la ổng khi dễ thì cũng được đi. Con em gái nó làm ăn chắt mót củi lục nên có nhắm mớ để dành khi túng ngặt tôi mượn phần nhiều là hổng cần trả đúng ngày, cũng không cần trả đủ, nên nó cằn nhắn cửi nhửi thì cũng được đi. Tới mấy người ở đợ là kẻ ăn người làm trong nhà mà nhiều khi họ cũng khi dễ ra mặt. Thứ đồ ở đợ, lọt vô nhà khác chủ địt một cái cũng phải dạ vậy mà họ gặp tôi họ bét bét ra cái chỗ khác. Biểu cái gì cũng dạ dạ, không thèm cãi, nhưng mà nhiều khi “đấm đách” làm. Hỏi tới thì đổ thừa ông, đổ thừa cô. Hỏng hỏi tới thì làm thinh cho qua hôm. Đời nghèo nó chó vậy đó. Biết vậy muốn sửa mà trời cũng hỏng cho sửa. tính trong bụng ngày Tết này cho họ mỗi người chừng độ 5 đồng để lấy tình cảm mà hồi tối thua hết tiền dành dụm cả tháng chạy xe ngựa. Đã vậy còn thua thêm để phải ký chồng vô giấy nợ. Cho tới bây giờ thì để đó cho có nhưng mà nhiều quá cũng ngại. Biết đâu chừng họ trở quẻ. Với lại, thiếu nợ đánh hết sướng nhiều khi ăn bao nhiêu họ trừ mẹ vô tiền nợ. Đánh buồn ngủ như đánh bài ăn ừ. Mà bỏ thì hổng được. Ngứa tay ngứa chưn phải tới sòng. Sâu cờ bạc còn hơn sâu rượu, còn hơn ghiền á phiện. Sòng mở mà mình không tới thì sâu nó cũng hành khó chịu. Làm gì cũng không yên bụng. Bồi hồi bối rối trong lòng như đánh cờ vây, như đàn bà bị mắc đàng dưới. Ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Thêm ý muốn gỡ cũng thúc kéo mình tới sòng bài nữa. Như hồi chiều hôm qua, mới đánh xe ngựa về. Tháo ách ngựa ra chưa kịp làm gì hết con của thằng Hai Lé chủ sòng “cu-di” ở vựa củi kế bên chùa Hưng Long đã nháy nhó là tối nay có mấy người ở Chợ Rẫy tới gầy sòng. Vậy là khỏi quần ngựa, cứ bỏ lúng ngựa vô chuồng, vậy là khỏi kiểm soát coi con Cúc cắt cỏ đủ không, nước nó đổ đầy không, tôi chạy đi xối mình mẩy ba gáo cho có tiếng là tắm rồi lên nhà trên tính và ba hột mau mau, uống nước ào ào rồi chạy đi chơi. (còn tiếp) NGUYỄN VĂN SÂM
THÁI ĐỘ của TẢN-ĐÀ
ĐỐI VỚI THÚY-KIỀU Trong rừng thi vịnh Kiều, có một bài thơ vượt lên cao là bài thơ bát cú của Tản-Đà làm từ hồi còn trẻ tuổi và đề là “Kiều thứ 19”. Về sau, Tản-Đà lại vịnh Kiều, mà không bằng sáng tác. Tản-Đà tập Kiều để vịnh Kiều, đề tựa bài thơ là “Tập Kiều, Viếng Kiều”. Trong hai bài thơ đó, thi-sĩ tỏ ra hai thái độ khác nhau, đối chọi với nhau. Hồi chưa kịp lăn lóc vào bụi đời, hồi mới tiếp xúc với xã-hội, cậu ấm Hiếu đụng đầu vào ái tình, thương cô gái bán sách ở hàng Bồ, tiếc thay không được cô ưng, nên cậu ấm thất vọng. Nạn thất tình lại nhồi thêm nạn thi rớt, nên cậu đâm ra chán đời và oán người. Phải chăng trong hoàn-cảnh khủng-hoảng tinh thần ấy mà Tản-Đà làm bài “Kiều thứ 19” thống trách Thúy-Kiều hầu tiệc cho Hồ-Tôn-Hiến, sau khi Từ-Hải bị giết vì đã nghe nàng ra đầu hàng: Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran, Tướng quân chi tiếc cánh huê tàn ? Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng, Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan. Tổng-đốc vì thương thân bạc mạng, Tiền-Đường chưa chắc má hồng nhan. Trơ trơ nấm đất bờ sông nọ, Hồn có nghe xa mấy giọng đàn ? Bài thơ quả là tuyệt-diệu, đây là một Kiệt tác con con; sánh với nhiều bài bát cú khác của Tản-Đà, đây là một bài thơ trổi nhứt. Từ chương-pháp đến tự pháp, từ vần điệu đến âm thanh thật không có một nhược điểm cỏn con, mà toàn thể là toàn thiện toàn mỹ. Xét về nội dung, bài thơ cũng là xuất sắc phi thường, vì những tư tưởng rất đỗi sâu cay độc địa. Nếu Thúy-Kiều linh thiêng như Đạm-Tiên và có thể như Đạm-Tiên hiện hồn về được, thì bề nào nàng cũng đã phải tìm về Tản-Đà để biện bạch đôi co. Nếu quả như Nguyễn-Du đã cho Thúy-Kiều nói: Thác là thể phách còn là tinh anh Và nếu quả rằng một khi hồn xuống tuyền đài còn nhớ biết thì sao cho khỏi Thúy-Kiều với Tản-Đà phải tranh luận nhau trước mặt Diêm-Vương. Nhưng hai hiện-tượng phi thường nầy không thể xẩy ra, vì lẽ đơn giản là Thúy-Kiều chẳng qua là một nhơn vật tiểu-thuyết. Nhưng còn Nguyễn-Du người đã tạo nhơn vật bạc mạng nầy ra, Nguyễn-Du nghĩ thế nào đối với bài thơ cay nghiệt của Tản-Đà? Hỡi ơi! Nguyễn-Du đã ra người thiên cổ trước khi ấm Hiếu cất ba tiếng khóc chào đời! Người vắng mặt chịu thua vậy! Còn độc-giả? Độc-giả thì phân ra hai cánh rõ ràng phe nầy thương Kiều, đảng nọ trách Kiều. Tản-Đà cũng như Huỳnh-Thúc-Kháng tự do đứng vào đâu cũng được. Tản-Đà đã lựa chọn, đã quyết định, đứng vào phe trách Kiều. Tản-Đà trách Kiều, nên mới xuống bút độc-địa lên án Thúy-Kiều thậm ác như vậy. Cũng không hề chi, vì mỗi người mỗi ý, mỗi người có lập trường chánh-trị của mình. Điều cần thiết là sự trung-thành, sự thủy chung như nhứt. Đành rằng bọn điếm chánh-trị cứ thay áo đổi xiêm, nay tuyên-bố long-trọng lập trường nầy, mai rêu rao quyết liệt chủ trương khác. Chỉ vì lợi. Tản-Đà mưu lợi gì mà thay đổi chánh-trị đối với Thúy-Kiều? Trong bài “Kiều thứ 19” Tản-Đà đả kích Thúy-Kiều bao nhiêu, sang bài “Tập Kiều, Viếng Kiều” lại thương xót bấy nhiêu! Mà trước khi tỏ lòng thương xót, Tản-Đà đã chịu khó ôn lại đời nàng, từ lúc thề bồi với Kim-Trọng, trải qua tai nạn nọ kia, dĩ chi gặp chàng Từ-Hải: Lấy thân mà trả nợ đời, Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân. Phong lưu rất mực hồng quần, Mười lăm năm, bấy nhiêu lần làm gương Thề hoa chưa ráo chén vàng Bán mình vội phải tìm đường cứu cha Lênh đênh đâu nữa cũng là... Cái thân liệu những từ nhà liệu đi Khi Vô Tích, khi Lâm Truy Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần Đùng đùng gió dục mây vần Hồng quân với khách hồng quần đã xoay Cửa trời rộng mở đường mây Hay là khổ tận, đến ngày cam lai Triều đình riêng một góc trời Mua vui cũng được một vài trống canh. Nghĩa là Tản-Đà làm công việc của một thẩm phán. Kết luận, Tản-Đà trở mặt phản lại chánh mình, thay vì thống trách Thúy-Kiều, trái lại hết lời thương xót: Kiếp hồng nhan có mong manh Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi Thương ôi ! Sắc nước hương trời ! Ngàn thu bạc mệnh, một đời tài hoa Đau đớn thay phận đàn bà Khéo thay thác xuống làm ma không chồng Lửa hương chốc để lạnh lùng Nào người tiếc lục tham hồng là ai ? Người thương Thúy-Kiều và mộ Tản-Đà, đọc được những câu thơ ai cảm trên đây, lấy làm khỏe nhẹ, mừng rằng thái độ thân thiện đối với một khách hồng nhan bạc mệnh như thế mới xứng vừa với một thi sĩ đa cảm đa tình. Tại sao Tản-Đà bất nhứt từ trước đến sau như thế? Thúy-Kiều bao giờ cũng nằm yên trong tiểu-thuyết ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, chẳng có vận động để mua chuộc tình cảm của ai hết. Duy có con người của Tản-Đà là đã thay đổi thuận chiều với kiếp trầm luân của người bạc mạng, bởi Tản-Đà cũng đã nếm nhiều đắng cay, đã mềm lòng vì đau khổ. Bước lận đận thẹn thùng sông núi, Mớ văn chương tháng lụi năm tàn, Lụy trần ngày tháng lan man, Nỗi lòng riêng nghĩ muôn vàn càng thêm. (Đêm đông hoài cảm) SONG LAN - LỆ NGỌC st.
Tranh của cố danh họa Nguyễn Gia Trí
Phụ Bản II
ĐÁM CƯỚI BẢO ĐẠI VUA LÀM CON NUÔI QUAN KHÂM SỨ PHÁP Khải Định là vị vua thứ 11 triều Nguyễn, sinh được hoàng tử duy nhất là Vĩnh Thụy, chọn tên theo Đế hệ của vua Minh Mạng định sẵn chữ lót để phân biệt đẳng hệ cho 20 đời con cháu như sau: Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quý Định Long Trường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thoại Quốc Gia Xương. Bảo Đại sinh ngày 22-10-1913 tại Huế, mẹ đẻ là Hoàng Thị Cúc (sau khi Khải Định băng hà mới được tôn là Đoan Huy Hoàng Thái hậu). Vĩnh Thụy lên 7 tuổi được vua cha Khải Định ủy thác cho vợ chồng Charles, Khâm sứ Huế, nhận làm con nuôi, mang về Pháp cho ăn học. Sang Pháp, Vĩnh Thụy học tại trường Bách nghệ Paris. Ngày 6-11-1925, Khải Định băng hà, Vĩnh Thụy phải về thọ tang cha. Lúc này Vĩnh Thụy mới 13 tuổi, nhưng cũng được triều đình đưa lên kế vị vua cha và được phong vương, lấy niên hiệu là Bảo Đại ngày 8-1-1926. Lễ phong vương cho Bảo Đại có sự hiện diện của viên toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne, Khâm sứ Trung kỳ Pierre Pasquier và bố mẹ nuôi là Charles, cựu Khâm sứ Trung kỳ. Sau ba tháng ở trong nước lo việc ma chay vua cha và nhận lễ phong vương xong, Bảo Đại lại được vợ chồng Charles đưa sang Pháp để tiếp tục học thêm “nghề làm vua” và văn hóa Pháp. Còn việc triều chính ở nhà giao cho các quan đại thần, nhưng dưới sự kiểm soát của toàn quyền Pháp. Năm 1932, Bảo Đại đã hấp thụ “nền văn hóa Pháp” đầy đủ, tuổi cũng đủ trưởng thành (19 tuổi) nên được vợ chồng Charles đưa trở về Việt Nam. Nhân dịp này, người Pháp cũng muốn “chọn sẵn” một người vợ cho Bảo Đại để làm hoàng hậu, theo khuôn mẫu: phải có quốc tịch Pháp và có đạo Công giáo. Vợ chồng Charles vốn đã biết Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan, con gái của Pierre Nguyễn Hữu Hào đang du học ở Pháp, vừa tốt nghiệp tú tài toàn phần trường Couvent des Oiseaux Paris. Năm này, M.J.Lan đúng 17 tuổi. Biết M.J.Lan nghỉ hè về nước thăm gia đình nên vợ chồng Charles đã chọn chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam có M.J.Lan để Charles và Bảo Đại cùng đi. Nguyễn Hữu Hào người gốc Gò Công, là con rể của Lê Phát An (cha của Lê Phát An là Lê Phát Đạt, tức nhà tỷ phú Huyện Sỹ), cả ba đời gia đình này có quốc tịch Pháp và là người công chức do Pháp đào tạo. Vì vậy người Pháp như Toàn quyền A.Varenne, Khâm sứ P.Pasquier và vợ chồng Charles đều đồng ý chọn M.J. Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ cho Bảo Đại. Nhân dịp cả tháng trời chiếc tàu biển d’Artagnan lênh đênh trên đại dương, vợ chồng Charles đã sắp đặt giới thiệu Bảo Đại làm quen với M.J. Lan. Vì là người đồng huơng xa quê và cùng hấp thụ văn hóa Tây phương nên đôi nam nữ này trở nên thân tình không mấy khó khăn và họ đã hẹn khi về nước sẽ gặp lại nhau tại Đà Lạt. ĐÁM CƯỚI NHÀ VUA Trong cuốn hồi ký Con Rồng An Nam, Bảo Đại kể lại diễn tiến việc chọn vợ và cưới vợ của mình như sau: “Từ ngày tôi trở về nước, trong Nội có một cuộc tranh giành chuyện nạp phi cho tôi. Hoàng Thái hậu, các đại thần mỗi người có một “dự tuyển” của mình. Tôi gặp thoáng qua người này một chút, người kia một chút chứ chưa có chủ tâm với cô nào. Tôi biết vấn đề chọn lựa phi tần của vị hoàng đế tùy thuộc vào quyết định của đình thần, tôi chờ người ta giới thiệu với tôi những người chính thức… …Nhân bàn đến chuyện nạp phi, tôi tuyên bố thẳng: tôi phá bỏ cái tục đa thê của người Việt… …Thế rồi vào cuối năm (1933) tôi đi Đà Lạt, trong một buổi tiếp ở khách sảnh Palace có cả Khâm sứ Pasquier, người giới thiệu với tôi cô Nguyễn Hữu Thị Lan - con gái một nhà hào phú theo đạo Thiên Chúa ở Nam bộ. Cô Lan ở tuổi 17, vừa học xong trường Couvent des Oiseaux ở Pháp. Sau buổi gặp mặt ấy, chúng tôi đi lại thăm nhau nhiều lần, Nguyễn Hữu Thị Lan đã rất nổi tiếng ở Pháp. Cũng giống như tôi, cô chơi thể thao và thích âm nhạc… Cô Lan có cái vẻ quyến rũ của con gái miền Nam. Sau nhiều lần gặp gỡ, tình cảm yêu thương nhen nhúm giữa chúng tôi. Chúng tôi cầu mong được sống bên nhau… …Sau đó về lại Huế, tôi bẩm với mẹ tôi về chuyện gặp gỡ cô Nguyễn Hữu Thị Lan và những dự định của tôi. Nghe tôi thưa chuyện, mẹ tôi không thể giấu được sự lo lắng, nhất là khi bà nghe nói cô Lan theo đạo Thiên Chúa và lớn lên trong lối sống của châu Âu. Mẹ tôi lâu nay chỉ ước mong tôi có một người vợ sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam mà thôi. Lại còn vấn đề giáo dục con cái về tôn giáo cũng làm cho mẹ tôi bận tâm. Con cái chúng tôi theo Thiên Chúa giáo, khi được phong hoàng thế tử rồi thì làm sao đứng cử hành việc thờ cúng liệt thánh hay tế Giao? Đình thần cũng có những lo lắng đó. Các quan bàn thảo sôi nổi. Trong lần gặp sau đó, tôi đã nói thẳng với Nguyễn Hữu Thị Lan, tôi muốn cưới cô làm vợ. Bất chấp mọi hình thức nghi lễ, tôi thông báo quyết định của tôi với đình thần… …Ngày cưới của tôi được ấn định vào ngày 20-01-1934. Lễ cưới được tổ chức trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp. Đây là một lễ cưới đổi mới, trước kia chưa từng có trong cung đình. Tôi cũng quyết định, sau khi cưới, tôi sẽ tấn phong cho vợ tôi làm hoàng hậu - danh hiệu hoàng hậu trước đó chỉ phong cho thái hậu sau khi hoàng đế băng hà. Tôi chọn tên hiệu cho hoàng hậu mới là Nam Phương. Và tôi ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng - màu chỉ dành riêng cho hoàng đế. Lễ cưới được tổ chức ngay trong phòng tiếp tân của điện Cần Chánh. Cũng giống như lễ đăng quang, triều thần đứng sắp hàng dọc theo một tấm thảm đỏ và vàng dành riêng cho hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử triều Nguyễn có một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình. Bà Nam Phương mặc một chiếc áo rộng, chân đi hài cong, đầu đội vương miện có đính vàng ngọc, châu báu óng ánh. Bà đi một mình đến giữa tấm thảm, tất cả triều đình cúi chào. Với một vẻ đẹp tuyệt vời, bà đi thẳng vào các phòng lớn, tôi đang ngồi chờ bà trên một cái ngai thấp. Bà đến đứng trước mặt tôi, cúi đầu chào tôi ba lần rồi vào ngồi ở cái chái bên phải của tôi. Buổi lễ ngắn ngủi chấm dứt, Nam Phương hoàng hậu đã ở bên tôi. Chúng tôi sánh vai nhau bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung - nơi ở và làm việc chính của chúng tôi…” Ba năm sau, ngày 4-1-1936, Nam Phương sinh hoàng tử đầu lòng được đặt tên là Bảo Long. Khi nghe tin hoàng hậu Nam Phương hạ sinh hoàng nam, triều đình báo tin báo các quan triều và dân chúng mừng; trong thành bắn 7 phát súng thần công báo hiệu và cũng tổ chức mừng nhà vua. Theo cụ Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự Tiền văn phòng của triều Bảo Đại): “Trong cuộc kết hôn giữa Bảo Đại với Nguyễn Hữu Thị Lan, lý trí nặng hơn tình cảm nhiều. Về mặt tình cảm, nếu có cũng chỉ là bề ngoài. Còn về tính tình, tâm tư thì hầu như trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn, ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là quyền bính. Ông có thể phục thiện nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái lại, Nam Phương là người kín đáo, trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy nghĩ, thích đọc sách, nghiên cứu… thích uy quyền và có nhiều tham vọng về mặt chính trị. Một trong những tham vọng của Nam Phương hoàng hậu là Bảo Long sẽ lên kế vị vua cha (Bảo Đại). Bà sẽ nắm trọn quyền hành trong triều để “thi thố tài năng” và kể từ nay, Việt Nam sẽ có một ông vua theo đạo Công giáo như ý “mẫu quốc” Pháp và Tòa thánh La Mã đã mong đợi từ lâu”. Nam Phương hoàng hậu có 5 người con với Bảo Đại là: Bảo Long, công chúa Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và hoàng tử Bảo Thắng. Bà Nam Phương đã qua đời tại Paris năm 1968. Năm 1969, Bảo Đại (lúc này đã 56 tuổi), lấy một cô đầm trẻ, mới 25 tuổi tên là Monique Baudot, tốt nghiệp ngành tùy viên báo chí, làm việc cho Sứ quán Zaire tại Paris. PHAN THỨ LANG - BÙI ĐẸP st.
HỒI ÂM
Bạn gửi vào lòng trời Những câu hỏi cuộc đời bao khúc mắc Chỉ thấy mây cười trong nắng Mà chẳng hồi âm Bạn gửi vào gió những âm trầm Mỗi chiều qua gói lại những lời chao chát Nhờ gió tìm bậc tiên tri giải đáp Gió mải cợt đùa không nhớ chuyện hồi âm Bạn gửi vào nhân gian Những thành thật của bao điều khát vọng Nhân gian cả cười Bạn mơ mộng quá một hồi âm Bạn cuộn tròn tất cả vào trong tâm Ghi nhớ để lần hồi tìm lấy điều minh định Cho dù rất nhiều trong số Bạn cũng chẳng thể hồi âm cho cả chính mình. ĐÀM LAN
MONG MANH
Tình như chiếc lá mong manh Thu vàng úa rụng lìa cành xót xa Phù du một kiếp phôi pha Mây bay nước chảy la đà sắc không
Tàn phai rơi rớt mênh mông Tay cầm chiếc lá mùa đông hững hờ Biển chiều sóng vỗ xô bờ Nát tan bọt trắng giấc mơ bềnh bồng
Hoàng hôn vạt nắng phai hồng Áo em tím quá, tình nồng khói sương Nụ cười tím buổi chiều buồn Xin đừng nhỏ giọt sầu thương bẽ bàng
Chiều rơi tĩnh lặng mơ màng Còn bao lâu nữa - Ánh trăng bạc mầu Có ai biết được nông sâu Tình ơi thôi nhé nhuộm màu ly tan. Phạm Thị Minh-Hưng
Phép lạ
Ôi ánh mắt trao duyên ngày gặp gỡ Sao mông mênh gợi nhớ đến vô cùng Sao bâng khuâng như nửa phím tơ chùng Sao sâu lắng như màn đêm diễm tuyệt Sao giá lạnh như nghìn cơn bão tuyết Sao chơi vơi như tiếng sáo chiều thu Sao mơ màng như gió lạnh biên khu Sao êm ái như lời ru của mẹ Sao trìu mến như mùa đông lặng lẽ Sao đam mê như một bản tình ca Sao dịu dàng như những giấc mơ hoa Sao độ lượng, vị tha, nồng ấm quá ! Sao âu yếm như nắng hồng cuối hạ Sao xa vời dịu ngọt đến đê mê Sao say sưa rung động ánh trăng thề Sao huyền hoặc như bao trùm phép lạ. NGÀN PHƯƠNG
Tôi đi tìm
Tôi mở cửa bước ra vùng ánh sáng Tôi đi khám phá Sài Gòn Tôi đi giữa mênh mông Những tòa nhà cao ốc Đầy những dự án mở đường Xây dựng đường cao tốc Tôi đi về phía Đông Tôi đi về phía Bắc Ngược hướng về phía Nam Vượt qua những cây cầu Những dòng sông uốn lượn Những vùng đất còn hoang sơ Bàn tay của con người đang cải tạo Trong mắt tôi Một chốn thân quen Bỗng dưng thành lạ Tôi ngơ ngác Như người ngoài hành tinh Đây là đâu? Con đường này sẽ về đâu? Bao nhiêu năm Khép cửa nhà Nhốt mình trong vỏ ốc
Cùng những nỗi buồn Trong căn nhà rệu rã Tôi cố níu giữ hồi ức Tôi chôn giấu tuổi thanh xuân Tôi dậm chân tại chỗ... Sài Gòn bừng bừng sức sống Sài Gòn thay đổi từng ngày Đi... đi... Tôi đi tìm một vùng trời bình yên cho mình. Huỳnh Thiên Kim Bội
VỀ NƠI MỚI
Tặng các thi hữu thân mến CLB Sách Xưa & Nay Ta về Cần Giuộc hoàng hôn Gió tây bỗng thổi dập dồn đón chân Bước qua ngưỡng cửa ngập ngừng Đến nơi ở mới chưa ngưng nỗi buồn Giờ xa thành phố mưa tuôn Đường trơn lối cũ nắng luồn qua sân Xiết bao suy nghĩ tần ngần Làm quen chốn lạ lần lần cũng vui Thì thôi cũng sẽ tươi cười Cho qua những chuyện ngậm ngùi thế nhân. HOÀI LY 23/03/2019
MƠ MẸ VỀ
Đêm khuya mẹ bỗng hiện về Nhìn Con âu yếm não nề lệ vương Đời Con phận bạc đau thương Cô đơn lạc lõng - Quê Hương xa vời Mẹ - Cha - Anh - Chị qua đời Chồng thời mất sớm từ thời xa xưa Nuôi Con tần tảo nắng mưa Công thành danh toại - ngộ chưa xa rời Xin đừng sầu não Mẹ ơi Bề dâu Con đã thức thời trấn na Thành tâm cầu nguyện vái van Mẹ - Cha - Anh - Chị lầm than qua rồi Từ nay Sao sẽ đổi ngôi Tiêu dao tiên cảnh để thôi khổ sầu. VŨ THÙY HƯƠNG
CỘI RỄ TA
Tươi sáng mùng mười tiết tháng ba Mở đầu lịch sử nước non nhà Địa linh Phú Thọ lừng danh khắp Nhân kiệt Hùng Vương nổi tiếng xa Ngưỡng mộ Tiên Hiền con cúng trái Tôn sùng Quốc Tổ cháu dâng hoa Núi Nùng Sông Nhị luôn thương nhớ Hãnh diện vô cùng cội rễ ta. THANH VĨNH
KỶ NIỆM
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG (Mùng 10 tháng 3 ÂL) Tháng ba lễ giỗ Đức Hùng Vương Kỷ niệm hằng năm nước Việt thường Mười tám đời lưu ngời sử tích Bốn ngàn năm để rạng biên cương Non sông gấm vóc nhờ công đức Nòi giống Tiên Rồng thọ vĩnh trường Tổ quốc uy nghi đài ngưỡng vọng Anh linh phảng phất quyện trầm hương. HUYỀN NGA Kính họa: Thành tâm tưởng niệm Đức Hùng Vương Giỗ Tổ tháng ba nhớ lệ thường Mở cõi, nêu gương lòng dũng cảm Xây nền, tiếp bước chí kiên cương Tình nhà vực dậy hồn dân tộc Nghĩa nước xua tan lửa chiến trường Nguồn cội tự hào nòi giống Việt Đất lành chim đậu dựng quê hương. THANH VĨNH
HAI BÀ TRƯNG
Trưng Vương quê ở đất Châu Phong Nợ nước vai mang, trả oán chồng Họp mặt thề nguyền trừ lũ giặc Giương cờ khởi nghĩa cứu non sông Hồng quân dũng cảm ra chinh chiến Tô Định kinh hoàng trốn chạy dông Thống lĩnh Mê Linh về một mối Hai Bà phục quốc rạng Tiên Rồng. Thanh Châu
TÌNH PHỤ TỬ
Thương nhớ Ba, con về đây thăm viếng Buồn làm sao, Ba lặng tiếng im hơi Đáy mồ sâu, Ba nằm nghỉ muôn đời Chua xót quá, con về nơi cô lẻ Nhớ khi xưa, lúc Ba còn mạnh khỏe Những lời vàng, Ba nhỏ nhẹ bên con Dành cho nhau trong tình nghĩa vẹn tròn Sung sướng quá lệ nhòa tuôn khóe mắt Con ngồi đây, Ba suối vàng im bặt Lòng nhớ nhung, héo hắt nỗi sầu đau Một ngày nào, Ba, con, lại gặp nhau Nơi chín suối, trước sau tình Phụ Tử. Ngày 15/01 Nhâm Thân 1992 PHƯỚC HẢI
BÀ NỘI CỦA CON
Bà nội của con rất hiền Với con bà đẹp như tiên giáng trần Bà như gió mát mùa xuân Bà như ánh sáng trong ngần ban mai Bà đẹp mà lại có tài Tề gia nội trợ ít ai sánh bằng Trong lòng con vẫn nghĩ rằng Mong bà đại thọ trăm năm tuổi đời Cháu yêu bà lắm bà ơi Có bà có cháu cuộc đời thêm vui. LÊ MINH CHỬ
LOAY HOAY
Cải cách toàn diện vui sao Đổi mới giáo dục năm nào cũng xoay Tiến lùi, lùi tiến loay hoay Cái giá phải trả thổi bay bạc tiền Cải cách giáo dục của ta Mỗi năm mỗi kiểu xoay ra xoay vào Triết lý giáo dục thế nào Loay hoay đổi mới xoay vào xoay ra. LÊ MINH CHỬ
CÂY THẬP GIÁ
LÁ DỪA Tôi mua cho em cây thập giá lá dừa Bàn tay ai khéo kết nên hoa Có phải tình yêu là phép lạ Chúa Phục Sinh trong mỗi trái tim ta. Lễ PS 2009 LÊ NGUYÊN
LY KEM NHỎ
Vào quán ăn kem ngồi tán gẫu Chuyện vu vơ rồi chẳng biết nói năng chi Chim phiêu bạt lại về nơi cũ đậu Trời xanh êm mây trắng cứ bay đi Những vần thơ đâu có tội lỗi gì Mà phải viết ra vụng thầm che đậy Đâu còn thuở ban đầu trái tim run rẩy Xa lắm rồi, xa lắm chuyện ngày xưa Sáng thu nay có hai người chợt thấy Vòng thời gian như trở lại bất ngờ Ly kem nhỏ đủ quên làn nắng cháy Giữa cuộc đời khát bỏng mộng mơ. LÊ NGUYÊN 1981
TRỜI HẠN THÁNG SÁU
Tháng sáu hạn, lúa lên còm cõi Con nhà nông, chống chỏi lương khô Ra đồng tát nước tinh mơ Suốt ngày chẳng ngại, mỏi khừ bắp gân Ngoài biên ải, còn ầm binh lửa Chốn hậu trường, đen đúa mặt mày Lấy gì ta giúp nước đây Ra công cày cấy đủ đầy dân lương Khó khăn giải quyết nhau chung Đủ đầy sức khỏe sống trong mái nhà. LANG NGUYÊN
CHÉN RƯỢU TIÊU SẦU
Lẳng lặng ngồi yên, não nuột lòng Phải là nhớ mẹ vẫn chờ trông Quay thuyền trú đậu chiều êm sóng Tách bến trông ra sáng rạng đông Réo rắc tiêu ai lời mộc mạc Im re dáng núi vạn hơi đồng Bèo trôi sóng dạt nhiều gian khúc Chén rượu giải sầu rót nữa không ? LANG NGUYÊN
MƯA
Mưa nhiều đường đi trơn trợt Mưa rơi tí tách diễu cợt con đường Mưa hoài tìm đến người thương Mưa ngày ế ẩm bán buôn chờ hoài Mưa đêm rủ bạn lai rai Mưa dầm cô quạnh biết ai tỏ tường Mưa mây thỉnh thoảng bất thường Mưa to gió lớn ngập đường lại qua Mưa nhỏ ống cống thoát ra Mưa dai dẳng đường sá lún sình Mưa suốt thâu đêm lạnh mình Mưa buồn cô lẻ chuyện tình dở dang Mưa tuôn thác đổ trên ngàn Mưa lũ thảm hại điêu tàn cỏ cây Mưa trôi bọn trẻ ngất ngây Mưa rừng buồn thảm đắng cay cuộc đời Mưa ơi làm mát cho người. QUANG BỈNH 2019
TÌNH ĐIÊN
Em nói rằng: Anh đẹp quá trời!(1) Đẹp từ ánh mắt đến làn môi Đẹp khi sánh bước trên con phố Đẹp lúc… yêu nhau, lúc đứng ngồi! Say mùi... cỏ lạ, hương ngây ngất Em muốn tung hê cả... đất trời Để được gần anh thêm mấy phút Trao niềm cảm xúc, bỏng vành môi! Canh tàn, em nhớ anh da diết Ôm gối cô đơn rủa đất trời Nỡ để duyên tơ sầu cách biệt Không cho oanh yến kết thành đôi! Đêm nay, em khóc lúc... gần anh Sau phút cuồng điên của chúng mình Em sợ thời gian vùn vụt đến Cuốn trôi hạnh phúc mối tình xanh! Bài thơ tứ tuyệt gieo vần trắc Chở khối ưu tư, nỗi bất bình Chôn kín vào lòng con suối bạc Chờ ngày tươi sáng nở hoa xinh! Lục bát anh làm lúc nửa đêm Gửi người yêu dấu cất trong tim Đợi muôn năm nữa đầu thai lại Trao khúc xuân tình rộn rã thêm... (1) Vì quá yêu nên dễ thấy đẹp chứ thực chất thì chẳng đẹp tí nào! THANH PHONG
TỰ NHỦ
Có những lúc ta mong mình cô độc Nhìn dòng sông lờ lững, hững hờ trôi Chú tâm lắm, trong sâu lắng cuộc đời Ta mới thấy chú cá con nhẹ nhàng bơi lượn. Chú có vui, khi chung quanh vắng lặng Mình chú thôi, đuôi quẫy ngược dòng đời Để đứng im và tâm trí ngời ngời Rằng trong dòng chảy ấy, chú ung dung tự tại ? Thử nghĩ xem, rồi bao lâu sẽ mỏi Mà xuôi theo con nước bấp bênh rình Hay phơi bụng trên sóng nước mênh mông Mặc ác điểu từ cao xa lao đến ? Đừng nghĩ thêm, vì sống, đừng hò hẹn Lời hẹn hò là của những ngày mai Mà ngày mai là khất mãi, khất hoài Dẫu có rách, thì hôm nay ta đang sống ! Hãy quăng mình, vươn xa dòng nước lạnh Thênh thang trời là phút chốc của ta Ánh dương kia dẫu là nháng lửa lòa Thì cũng kịp xem cho lòng thỏa chí. Hm, nghĩ làm chi, khi đời ta chỉ thế Chỉ là cây kim khâu vá cũ mèm Hẳn rằng đôi khi đầu óc có huyên thuyên Thì kim ta cũng phần nào hữu ích ! LAM TRẦN
GỌI CHO TÔI
Ngày nào đó bạn buồn và muốn khóc Gọi cho tôi - xin hãy gọi cho tôi Dẫu rằng tôi không thể khiến bạn cười Biết đâu đấy - hai ta cùng nhau khóc Nếu tâm trạng thấy vô cùng đơn độc Gọi cho tôi - xin hãy gọi cho tôi Dẫu lặng thinh, tôi chẳng nói một lời Nhưng bạn biết rằng tôi luôn bên cạnh Ngày nào đó phân vân khi quyết định Gọi cho tôi - xin hãy gọi cho tôi Có thể tôi không quyết định được gì Nhưng làm bạn vững tâm khi chọn lựa Khi công việc bỗng nửa chừng thất bại. Gọi cho tôi - xin hãy gọi cho tôi Có thể tôi không mang việc mới nào Nhưng chỉ bạn thành công nơi cửa khác Nếu phạm phải sai lầm rồi hối tiếc Gọi cho tôi - xin hãy gọi cho tôi Tất nhiên tôi không sửa được điều sai Nhưng làm bạn trưởng thành hơn một chút Nếu bạn sợ vỡ tan điều tốt đẹp Gọi cho tôi -xin hãy gọi cho tôi Tất nhiên tôi chẳng thể giữ được rồi Nhưng mách bạn khởi đầu và kết thúc Bạn tuyệt vọng và trở nên bế tắc Gọi cho tôi - xin hãy gọi cho tôi Dẫu không làm bạn quên cả đi rồi Nhưng giúp bạn niềm tin vào cuộc sống Nhưng nếu có một ngày nghe im ắng.. Bạn gọi tôi, không có tiếng trả lời Đến với tôi lập tức nhé bạn ơi Vì - lúc đó chính tôi đang cần bạn Tác giả Robert J. Laneny Tâm Nguyện phỏng dịch
Màu xưa
Em hắt lên anh màu thu biếc người Em như vầng trăng sang bên kia trời Mắt môi nào xưa thôi buồn mà chi Gió đã lay rừng muôn chim bay đi Long lanh tìm ai cho gai lòng nhau Đã qua sương thu rơi vàng hoa cau Đã qua nồng hè mưa lan tan mau Đã qua hanh đông lá đầy vườn sau Còn chăng hương xuân trong đôi hoa tay Chạm vào môi em hoang vu khô gầy Xoa lên má em xanh mờ hồn xưa Vuốt trên mi em mặn nhòe hơi mưa... 22-4-1969 Trần Nhuận Minh
COLOUR OF YORE
You splashed on me the fall’s blue colour You’re like the moon on the other side of the sky Eyes and lips of yore, we shouldn’t be sad The wind has shaken the forest causing the birds to fly away For whom sparkling eyes are looking, causing our hearts to feel shocked Has gone by the autumnal dew that fell over yellow areca palm-tree flowers Has gone by the hot summer with fast melting rain drops Has gone by the dry weather with so many leaves filling our rear garden Does the spring perfume still exist in the couple of finger streaks Touching your dry and thin wild lips Chafing your cheeks with the dim old soul And fondling your blurred with salty rain steam eyelids... 22-4-1969 Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn
CA DAO
VỀ TÌNH YÊU - Em về đánh kiểng la làng, Tới đây anh chỉ vẩy cá trên vàng em coi Em đừng nói dại nói khờ, Bún làm bằng bột ê hề xương đâu. - Anh tiếc cho ai nuôi dạy mong chờ Một hai ba tuổi cho đến bây giờ em lớn khôn Cái vành khăn em vấn đã tròn, Câu cười tiếng nói đã dòn, em lại ngoan Sợi tơ hồng đã buộc với nhân gian Sao em không chịu khó gánh vác giang san cho chồng Nỡ đang tay em đứt tơ hồng, Đứng đầu núi nọ mà trông bên núi này. Ánh phong lưu son phấn đọa đày, Thay đen đổi trắng dễ ai rày yêu thương. Dẫu mai ra tán tía tàn vàng, Mười phương thiên hạ xem thường có vào đâu. Tấm thân em chẳng nghĩ mặc dầu, Bọn đàn bà còn để tiếng xấu về sau muôn đời. Chị em ơi, thế cũng kiếp người : Anh có thương thì thương cho chắc Có trục trặc thì trục trặc cho luôn Đừng như con thỏ nọ đứng đầu truông Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng. - Anh về ngoài Huế lâu vô, Họa bức tranh đồ để lại cho em. Anh buồn có chốn thở than, Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya. Anh đi đâu bỏ nhện giăng mùng, Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu. - Áo rách vai vá hoài vá hủy, Sao em có chồng chẳng nghĩ đến anh ? - Áo em đang khô, không ngờ áo em ướt Bởi hiềm vì anh chậm bước, nên thầy mẹ bán gả em đi - Bao giờ cho chuối có cành, Cho sung có nụ, cho hành có hoa. Bao giờ trạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình ! Bao giờ cây cải làm đình, Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta ! - Bao giờ đá nổi rong chìm, Muối chua, chanh mặn mới tìm được em. - Bắc Nam lòng chẳng thương tình, Để tôi đứng lại một mình sao đang. - Bắc thang hỏi thử ông trời, Tiền mà cho gái có đòi được không ? - Bần gie đóm đậu sáng ngời, Lỡ duyên tại bậu, trách trời sao đang. - Bận này tôi thác tại em, Hồn về chín suối để cho em có chồng. - Bậu có chồng rồi như con cá vô bờ, Tôi tương tư nhớ bạn, dật dờ đêm thanh. - Bậu nói với qua bậu không hái lựu bẻ đào, Đào đâu bậu bọc, lựu nào bậu cầm tay ? - Bây giờ hỏi thiệt cô ba, Còn thương như cũ hay là hết thương ? - Ban ngày dang nắng, tối lại dầm sương, Công tôi lao khổ, mình thương không mình ? - Bây giờ anh bắt tay nàng, Hỏi sao lá ngọc cành vàng xa nhau ? - Cây quằn vì bởi trái sai, Anh xa em vì bởi ông mai ít lời. - Cây da là cây da bến cũ, bến cũ là bến cũ đò xưa, Ôi thôi rồi người khác sang đưa Thiếp nhìn chàng lưng lẻo, nước sa xuống như mưa hỡi chàng ! HOÀNG KIM THƯ st.
Phụ Bản III
LUẬT THƠ (tiếp theo số 156) III. Thơ mượn nước ngoài 1. Phú: Người ta thường nói thơ phú đi đôi với nhau nhưng Phú là thể văn mô tả cảnh vật… có lẽ giống như văn xuôi ngày nay nhưng lại có vần, có đối thiết tưởng phải bỏ đi vì xã hội ngày nay cần sự trong sáng dễ hiểu và ngắn gọn nữa. 2. Đối: Là hai câu đặt sóng đôi nhau, ý và chữ cân xứng nhau. Ví dụ: Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà. Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan Nếu hai câu, câu trên là vế trên, câu dưới là vế dưới. Nếu một câu, đoạn đầu là vế trước, đoạn sau là vế sau. Ví dụ: Bềnh bồng mặt nước chân mây Đêm đêm sương tuyết / ngày ngày nắng mưa. Cánh bèo - Nguyễn Khắc Hiếu - Đối chọi: các từ trái ý nhau (đi/đứng; sống/chết; lời/lỗ…) - Đối ý: hai ý cân nhau (tiều vài chú/chợ mấy nhà). - Đối chữ: hai thanh trái nhau, cùng từ loại, ý cân xứng nhau, có thể trái ý (ăn/uống). * Thực từ đối với thực từ: tiếng chỉ sự vật hữu hình như hoa, lá, gió, mây… có lẽ tiếng vô hình trừu tượng mà ta cảm thấy như có cũng xếp vào loại thực từ như “gió” chẳng hạn. * Hư từ đối với hư từ: tiếng chỉ sự vật vô hình, trừu tượng, tiếng đưa đầy… như gần, xa, cao, thấp, có, không. * Từ nặng đối với từ nặng: chỉ sự vật tôn trọng, to tát như: Trời, đất, núi, sông, thần, thánh… * Từ nhẹ đối với từ nhẹ: tiếng chỉ sự vật nhỏ hơn tiếng nặng và những tiếng vô hình. Theo tôi thì chỉ cần chú ý tới thực từ và hư từ thôi. Còn từ nặng, từ nhẹ chẳng qua là chỉ bản chất của thực từ và hư từ. Về mặt nầy, mỗi nhà nói một cách thiết tưởng không cần khắt khe lắm. Có ý kiến cho rằng từ nặng là thực từ, là danh từ; từ nhẹ là hư từ, trạng từ hay giới từ. Lại có bán thực là hơi nặng, là động từ hay tính từ; và bán hư là trợ từ. Theo giáo sư Lê Văn Lý thì hư từ bao gồm trạng từ, giới từ, trợ từ… Về đối từ loại, ngày xưa phải nói là mơ hồ. Ngày nay ta đối từ loại là danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ… Tuy nhiên trong ngữ pháp ngày nay cũng có chuyển loại từ: Tôi đi Sài Gòn (danh từ), nó rất Sài Gòn (tính từ), ta Sài Gòn nhé! (động từ). Nhìn chung, theo tôi, đối trong thơ chỉ cần ý cân nhau, thanh trái nhau là được, còn từ loại thì tùy. - Đối thơ: thường dùng trong thơ Đường luật hoặc 5 chữ hoặc 7 chữ. Đối đúng từ loại, đúng luật bằng trắc, đối ý là chính; ví dụ: Xa xa cối giã chày khoan nhặt Văng vẳng chó gầu dạ ngẩn ngơ. - Đối câu: chỉ đối ở từ cuối câu, từ cuối đoạn về bằng trắc mà thôi. Từ trong mỗi đoạn của câu, số chữ không cần bằng nhau. * Từ cuối câu ở vế trên là TRẮC, các từ cuối đoạn là BẰNG. * Từ cuối câu ở vế dưới Phải là BẰNG, các từ cuối đoạn là TRẮC. Ví dụ câu đối của ông Hoàng Giáp Nguyễn Đức Tân mừng anh học trò học Văn mà đậu Võ cử: Vế trên: B ← B ← T Ấy mới HAY bảo một ĐẰNG thỉnh một NẺO Vế dưới: T ← T ← B Thôi cũng ĐƯỢC phi đằng NỌ tắc đằng KIA Tuy nhiên khi rà lại các câu đối của tiền nhơn, tôi có thấy sai lung tung, có khi tôi ngắt đoạn sai chăng? Thôi thì ta phiên phiến. Từ “ĐẰNG” lập lại!?... 3. Thơ Đường luật Đó là luật đặt ra từ thời nhà Đường ở Trung Hoa. Trước khi có thơ Đường luật là thơ cổ phong, sự diễn đạt thoải mái hơn. Tới thời nhà Đường có nhiều nhà thơ hay nên các nhà đặt thành luật chặt chẽ. Ở Việt Nam ta, thơ Đường chữ Nôm chủ yếu là Hán luật, khi đi vào khoa cử, thơ Đường có một bố cục để các giám khảo dễ định hơn kém: - Câu 1 là câu phá: khơi ý vào đề (không được phạm đề) - Câu 2 là câu thừa: tiếp ý trên nói thẳng đến đề (cho đề vào) - Cặp thực (3+4): giải nghĩa đề, tả thật, cụ thể (phải đủ ý) - Cặp luận (5+6): bàn ý, suy rộng ý nghĩa của đề, nêu sự nảy sanh tình y mới. - Cặp kết (7+8): tóm ý cả bài hay nói sao cũng được, nhưng có ý dính với đầu đề, vấn đề chánh của bài. Ngoài việc để giám khảo đánh giá hơn kém ở mặt chấp hành đúng bố cục hay không, bố cục còn giúp người làm thơ không trùng ý, không túng ý nữa. Tôi thấy thơ Đường hay của Trung Hoa, thơ chữ Hán của ta, từ 7 câu 1 thanh trắc và không vần nữa. Ví dụ bài CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ Độc tại dị hương vi dị khách Mỗi phùng giai tiết bội tư thân Giao tri huynh đệ đăng cao xứ Biến tháp thù du thiếu nhất nhân. Vương Duy (701-761) thời Đường Thơ Đường luật có hai loại: ngũ ngôn và thất ngôn - Các từ 1, 3 và 5 không cần theo luật. * Thơ Đường luật thất ngôn bát cú (bảy chữ, tám câu). Có 2 luật: + Luật Bằng thì từ thứ 2 câu 1 là Bằng + Luật Trắc thì từ thứ 2 câu 1 là Trắc + Vần Bằng thì từ thứ 7 là Bằng vần + Vần Trắc thì từ thứ 7 là Trắc vần + Niêm là dính, nó quy định bằng trắc ở từ thứ 2 trong các câu. Từ 2 câu 1 niêm với từ 2 câu 8; 2 với 3; 4 với 5; 6 với 7. Các từ này xác định luật bằng trắc trong câu đó (đúng luật). + Cách nhớ: chữ thứ 4 trái thanh với 2 và 6. + Về lục ngôn thể, giáo sư Thanh Lãng nói Trung Hoa không có. Việt Nam thì có Phạm Mại sáng tác cả bài đều 6 chữ nhưng tôi không đề cập tới cho đỡ rối. Thời nhà Lê, hội Tao Đàn và Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi lục ngôn thể là thơ thất ngôn có 1 hay 2 câu 6 chữ. Có lẽ nay ta coi đó là biến thể của thơ Đường. Ta có thể viết hơn 2 câu 6 chữ hay cho vài câu 8 chữ… Người Việt Nam chơi thơ Đường còn có lối: - Khoán thủ: các chữ đầu câu ghi sẵn, ghép thành câu có nghĩa. - Khoán tâm: các chữ giữa câu ghi sẵn, ghép thành câu có nghĩa. Ví dụ: Bài thơ khoán thủ + Bài thơ khoán tâm HÒA VUI (họa vận thơ khoán thủ khoán tâm bài “Tròn hai năm” của thi hữu Võ Hoàng Bật) HÒA tâm cùng các bạn chơi thơ VUI thú làm sao, chẳng bến bờ THI pháp mở mồm gieo mộng ước HỮU vần trao ý thỏa niềm mơ LÃO niên mạng tựa chuông treo tóc HẠNG thứ hồn như tuyết ánh tơ QUẬN trấn nơi nơi mong hỗ trợ NĂM hằng ra sức dựng cao cờ. Hồng Lạc cùng VUN trang sử vàng Dưỡng tu lực KHÍ, mộng an khang Xưa nay liệt, TIẾT vinh dân tộc Muôn thuở hùng THI khiếp ngoại bang Ta cứ đem NHÂN vui khắp chốn Mặc người khinh TRỌNG đẹp toàn đoàn Tuổi già đạo NGHĨA thêm hương sắc Giương mãi thâm TÌNH vượt thái san. NHỰT THANH 30.8.1995 - Vĩ tam thanh: cuối câu là 1 chữ có ba thanh. Ví dụ: NIỀM VUI THÔN DÃ Đờn ca hát xướng tẳng tằng tăng Trai gái đua tranh băng bẳng bằng Quay mặt liếc nhìn a á ả Khều tay chỉ trỏ hắn hằn hăn Nền trăng dìu dịu thơ thờ thở Mùi lúa lâng lâng thăng thẳng thằng Cười cợt đôi canh vui vúi vủi Ơi miền thôn dã rẳng rằng răng… NHỰT THANH 14.4.2004 - Tiệt hạ: chữ cuối bỏ lửng ĐI CHỤP HÌNH Lận máy vào lưng trông cũng ra… Vũng Tàu ngắm cảnh, chụp cho ra… Một mình ngần ngại… còn chi sẽ… Nhóm bạn rủ rê… vỡ lẽ ra… Lửng thửng đưa chưn… đây với đến… Ngập ngừng ghi ảnh… đấy hay ra… Tự xoay ta cứ thây cho nỗi… Nhờ cậy còn lo rủi lỡ ra… Vũng Tàu 07.4.2012 - NHỰT THANH - Yết hậu: bài thơ câu cuối chỉ có một từ. Thể thơ ngũ ngôn hay thất ngôn đều có lối nầy cả. Ví dụ: VÃI NHIẾC SƯ Đầu trọc tếch, nhẵn cừ, Trông mặt khéo là như, Tu hành đâu có thế, Hư ! Trích Việt Hán văn khảo của PHAN KẾ BÍNH - Thuận nghịch độc: đọc xuôi là một bài thơ, đọc ngược cũng là một bài thơ. Ví dụ: Thơ đường thuận nghịch đọc ĐỌC XUÔI CẢNH ĐỜI Phường, phố, ngựa, xe… cảnh rập rình Bởi cùng do bận việc mưu sinh ? Khương ninh chặt dạ trân trân ngó Trọng đức thành tâm mãi mãi nhìn Cường thế vị dân chiêu nhiệm trí(1) Đạo thời vì chủ lý không minh Cương trung thấm thấm… lòng xao xuyến Đường học hỡi ơi… khó tự trình ?(2) ĐỌC NGƯỢC THẾ SỰ Trình tự khó ơi… hỡi học đường Xuyến xao lòng thấm, thấm trung cương Minh Không, Lý chủ vì thời đạo(3) Trí Nhiệm, Chiêu dân - vị thế cường Nhìn mãi mãi… tâm thành đức trọng Ngó trân trân… dạ chặt ninh khương Sinh mưu, việc bận… do cùng bởi ?... Rình rập cảnh xe ngựa… phố phường… PHẠM HIẾU NGHĨA 31.12.2011 (1) Nguyễn Minh Không môn đệ của Từ Đạo hạnh nhận lời trị bịnh cho Hạnh khi ông thác sanh làm vua Thần Tôn nhà Lý. Bịnh hóa hổ không ai trị được. Vua khỏi bịnh phong ông làm quấc sư. (2) Nhiệm là kín, sâu mà cũng là quan Ngô Thời Nhiệm. Chiêu là mời gọi mà cũng là vua Lê Chiêu Thống. (3) Trình là đường đi. Ngoài ra còn nhiều lối khác như thơ độc âm, độc thanh, độc vận, hạn vận… * Thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt là bài bát cú ngắt đôi, không cần đối. Có thể ngắt hai câu đầu với hai câu cuối, có thể là bốn câu giữa… Nhiều bài tứ tuyệt liền nhau gọi là tứ tuyệt trường thiên. * Thơ Đường luật ngũ ngôn bát cú (năm chữ, tám câu): Đó là thơ thất ngôn bỏ từ 1 và 2. Nếu tứ tuyệt thì ngắt hai như trên. Nó cũng có luật bằng và luật trắc.
Bỏ từ 1 và 2 bài bát cú luật Trắc biến thành thơ ngũ ngôn luật bằng. Thơ 5 hay 7 chữ đều có đối: câu 3 đối với 4; 5 với 6 . 4. Thơ mới, thơ Tây: sau giải phóng (1975) còn gọi là thơ tự do Đây là thể thơ được cổ võ và thịnh hành từ năm 1932, do các nhà tân học bắt chước thơ Tây mà sáng tác, thường thì mỗi khổ 4 câu. Nó gọi là thơ mới vì cách diễn đạt và dùng từ đều mới: - Từ dùng tự nhiên, không gò bó, không điển tích, diễn tả đúng sự việc mà không cần từ trang trọng. - Câu thì có khi một câu chưa đủ ý, phải diễn tiếp ở câu sau vài từ nữa. - Được diễn tả tình cảm, tình yêu trai gái… một cách tự nhiên. - Vần: trong khổ, câu nào cũng có vần ở cuối mỗi câu Vần là một cặp Bằng, một cặp Trắc có khi hai cặp đều Bằng. Theo Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm có ghi. PHẠM HIẾU NGHĨA
NGHIỆP ĐỜI
(Những chữ IN HOA là tựa đề các tác phẩm của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn) DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI trần gian ĐỢI CHỜ mãi, ước bình an tháng ngày ĐỜI MƯA GIÓ lắm đắng cay BÙN LẦY NƯỚC ĐỌNG, quắt quay TIẾNG ĐÀN Một ngày HAI BUỔI CHIỀU VÀNG Buồn như con Cọp NHỚ RỪNG khôn nguôi Bao phen TRỐNG MÁI giữa đời Theo GIÒNG NƯỚC NGƯỢC, tả tơi nỗi niềm Miên man HỒN BƯỚM MƠ TIÊN MẤY VẦN THƠ mãi vô duyên phận sầu Và THẾ RỒI MỘT BUỔI CHIỀU NỬA CHỪNG XUÂN chợt nhói đau LẠNH LÙNG Ngày chờ, tháng đợi, năm mong GÁNH HÀNG HOA vẫn bềnh bồng ngược xuôi THOÁT LY chẳng khỏi kếp người Nên ANH PHẢI SỐNG và vui GIA ĐÌNH Giữ hồn BƯỚM TRẮNG tươi xinh TIÊU SƠN TRÁNG SĨ là mình mãi thôi NẮNG TRONG VƯỜN vẫn đẹp tươi MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM suốt đời không quên LÊN CUNG TRĂNG chẳng ĐẸP hơn CON ĐƯỜNG SÁNG giữa gian trần, chẳng xa Mặc dù hiu hắt NẮNG THU Mặc dù GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA buồn lơi Lặng nghe TIẾNG SUỐI REO vui Chớ nên ĐOẠN TUYỆT với đời mà chi ! VÀNG VÀ MÁU với CÁI VE Cùng TAY ĐẠI BỢM lăm le từng ngày GIÓ NGÀN TRĂNG đẹp đêm nay Ai THỪA TỰ nỗi đắm say cuộc đời? Thương cho SỢI TÓC rụng rơi TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA chẳng ai bênh mình Mỗi NGÀY MỚI rạng bình minh Mỗi ĐÒN BÚT lại như kinh nguyện cầu Đây GÓI THUỐC LÁ gieo neo Thương mình như phụ nữ yêu THƯƠNG CHỒNG NỤ CƯỜI CHÍNH NGHĨA ước mong Cây BÚT CHIẾN ĐẤU vì công lý đời Cầu cho đức HẠNH rạng ngời Bởi vì Đức Chúa đời đời công minh Tín nhân phải sống công bình Chân thành nhân ái, sống tình nghĩa luôn(*) TRẦM THIÊN THU TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ( 自力文團 , Groupe littéraire de ses propres forces) là tên gọi một tổ chức văn bút do Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) khởi xướng vào năm 1932, với các hội viên ban đầu là Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Thạch Lam và Tú Mỡ. (*) Kn 12,19a – “Người công chính phải có lòng nhân ái”. Kim Sơn st.
NHỮNG VÌ SAO
Alphonse Daudet Chuyện kể của một anh chàng chăn cừu miền Provence Thời gian mà tôi trông coi gia súc trên đỉnh Luberon, tôi đã ở lại đó trọn hàng tuần mà chẳng thấy một bóng người, một mình trên đồng cỏ chăn thả súc vật với con chó Labri và những con chiên của mình. Thỉnh thoảng, vị ẩn sĩ ở Mont de l’Ure đi qua đó để tìm kiếm thảo dược hoặc là tôi chợt thấy bộ mặt đen nhẻm của người thợ đốt than nào đó ở Piemont; nhưng đó là những người ngờ nghệch, lặng lẽ nhờ vào sự quạnh hiu hoang dã, nên đã đánh mất sở thích trò chuyện và không biết gì để hỏi về những gì xảy ra ở dưới làng mạc, thành thị. Cứ mười lăm ngày, khi tôi nghe tiếng lục lạc của con la đực ở trang trại của chúng tôi mang thực phẩm trong nửa tháng cho tôi trên con đường dốc, và như là tôi thấy xuất hiện từ từ trên đỉnh dốc, cái đầu lanh lợi của chú nhỏ Miarro làm công cho trang trại hoặc là chiếc mũ vải màu nâu của bà cô già Norade, tôi thật tình rất sung sướng. Tôi bảo họ kể cho nghe những tin tức ở miền dưới, những lễ rửa tội, lễ cưới; nhưng điều làm tôi thích thú hơn hết là được biết những gì của cô con gái chủ nhân tôi, quý cô Stéphanette, người đẹp nhất vùng trong vòng mười dặm. Làm ra vẻ không tò mò cho lắm, tôi hỏi thăm xem cô có tham gia nhiều cuộc lễ, những bữa tiệc tùng ban tối, có không những anh chàng hào hoa đến với cô nàng và ai mà hỏi tôi những gì tôi có thể thực hiện, với tôi một gã chăn cừu nghèo khổ ở trên núi cao, tôi sẽ trả lời rằng với chàng trai hai mươi tuổi như tôi, quý cô Stéphanette là người con gái đẹp nhất mà tôi đã gặp trong đời. Thế mà, một ngày chủ nhật nọ, khi tôi đang chờ lương thực cho mười lăm ngày, thì nhận thấy nó đến quá trễ. Buổi sáng, tôi tự nhủ: “Đó là tại lỗi của buổi đại lễ”; rồi thì đến giữa trưa, trời nổi cơn giông lớn, và tôi nghĩ là con la sẽ không thể lên đường được vì những con đường xấu. Cuối cùng, vào lúc ba giờ chiều, trời đã xanh trong, ngọn núi lấp lánh ánh nước và mặt trời giữa tiếng nước tí tách trên lá cây và sự tràn trề của những con suối ngập đầy nước, tôi nghe tiếng lục lạc của con la, vui tươi, thu hút như tiếng chuông đổ ngày lễ Phục sinh. Nhưng đó không phải là cậu nhỏ ở trang trại, cũng không phải bà cô Norade cỡi nó. Đó là... các bạn hãy tưởng tượng xem ai nào! Quý cô của tôi các bạn à, con người thật sự của quý cô đang ngồi ngay ngắn giữa những chiếc giỏ mây, vẻ người hồng hào bởi không khí ngọn núi và sự tươi mát của cơn bão qua. Chú nhỏ bị bệnh, bà cô Norade thì đi nghỉ dưỡng ở nhà các con của bà rồi. Người đẹp Stéphanette đã kể cho tôi nghe như thế trong khi bước xuống từ con la cái, và nàng đến trễ là tại vì lạc đường, nhưng mà khi trông thấy cô ấy diện đẹp ngày chủ nhật với chiếc váy rực rỡ viền đăng ten, băng cài tóc đính hoa, cô ấy có vẻ khá bị trễ nải vì những điệu khiêu vũ hơn là tìm đường đi trong các bụi rậm. Ôi người phụ nữ duyên dáng của tôi. Đôi mắt tôi nhìn ngắm nàng không hề chán. Thật sự tôi chưa bao giờ được nhìn cô ấy gần đến như vậy. Đôi khi vào mùa đông, khi đàn gia súc xuống đồng bằng, và lúc tôi trở về trang trại để ăn tối, cô nàng đi ngang qua phòng ăn một cách mau chóng, rất ít trò chuyện với các gia nhân, luôn trang điểm, và có chút kiêu hãnh... Và bây giờ thì tôi đang có cô ấy trước mặt chỉ riêng cho một mình tôi thôi, có phải là điên cái đầu không chứ? Trong khi cô ấy lấy thực phẩm trong giỏ ra, cô vừa tò mò nhìn ngó chung quanh. Khẽ nâng chiếc váy đẹp của ngày chủ nhật lên để khỏi bị chạm đất, cô bước vào mục trường*, muốn xem cái góc của tôi ngủ, cái máng rơm với tấm da cừu, chiếc áo khoác rộng lớn không tay treo trên tường, cây gậy đầu cong, cây súng bắn đạn đá… Tất cả những cái đó đều làm nàng vui thích: - Vậy thì đây là nơi anh sống phải không, anh chăn cừu của tôi? Dường như anh phải buồn bực lắm khi luôn luôn ở một mình chứ nhỉ? Anh làm gì, nghĩ gì nào? Tôi muốn đáp lại rằng: “Nghĩ đến cô đấy, cô chủ” và tôi đã không nói dối; nhưng sự bối rối quá nhiều khiến tôi không thể tìm được dù chỉ một lời. Tôi vững tin là cô đã nhận ra điều đó, và cô nàng độc ác đã lấy làm thích thú để nhân lên gấp đôi sự bối rối của tôi với tính tinh nghịch của mình: - Còn cô bạn gái của anh nữa chứ, thỉnh thoảng cô ta có lên thăm anh không hở? Chắc chắn đó phải là nàng dê cái bằng vàng hoặc là nàng tiên Esstérelle chạy lên đỉnh núi... Và chính là nàng, khi trò chuyện với tôi lại thật mang dáng vẻ của nàng tiên Esstérelle với nụ cười xinh đẹp của cái đầu quay quắt, và sự vội vã ra về đã làm cuộc viếng thăm là sự xuất hiện của vị tiên ấy. - Từ biệt anh chăn cừu. - Chào cô chủ. Và rồi cô đã ra về mang theo những cái giỏ trống không. Khi mà nàng đã khuất dạng trên con đường dốc, thì dường như là những viên đá sỏi lăn dưới móng con dê cái rơi xuống từng viên vào trong tim tôi. Tôi đã lắng nghe chúng rất lâu, rất lâu, tôi đã ngồi thừ ra, không dám cử động, sợ làm bay đi cơn mộng của mình cho đến lúc cuối ngày. Vào buổi chiều tối, khi vực sâu các thung lũng trở nên xanh thẫm, các con cừu đi sát vào nhau kêu be be để trở về mục trường, tôi nghe có tiếng ai gọi dưới con đường dốc, và thấy quý cô của tôi hiện ra, không tươi cười như ban nãy mà đang run rẩy vì lạnh, vì sợ và ướt át. Dường như ở dưới đường dốc, dòng suối Sorgue rộng lớn ra bởi cơn mưa bão và khi nàng cố hết sức để băng qua đã suýt có nguy cơ bị đuối nước. Ghê gớm hơn là vào thời điểm đêm nầy, không nên nghĩ đến việc trở về trang trại, bởi vì quý cô của tôi không bao giờ biết tìm ra con đường tắt một mình, còn tôi thì không thể rời bỏ đàn gia súc được. Ý tưởng qua đêm ở trên núi làm cô băn khoăn rất nhiều, hầu hết là vì nguyên do là sự lo lắng của cha mẹ nàng. Tôi ráng làm nàng yên tâm bằng hết sức mình: - Vào tháng bảy, đêm ngắn lắm, thưa cô chủ... Chỉ là thời tiết xấu trong chốc lát thôi. Và tôi nhanh chóng nhóm một đống lửa lớn để cô hơ đôi chân và chiếc áo dài bị đẫm ướt của dòng sông Sorgue. Kế đó, tôi mang đến trước mặt cô ấy sữa, những thỏi phó mát nhỏ; nhưng cô bé khốn khổ không nghĩ gì đến sưởi ấm, kể cả ăn uống, và khi thấy những giọt lệ nóng dâng đầy trong mắt nàng, tôi cũng muốn khóc theo. Nhưng đêm gần như đã xuống, chỉ còn sót lại trên đỉnh núi một chút bụi của mặt trời, một làn hơi nước ánh sáng về phía mặt trời mà thôi. Tôi muốn quý cô vào nghỉ ngơi trong mục trường. Nàng nằm trên đệm rơm tươi và tấm da hoàn toàn mới, tôi chúc cô ngủ ngon và tôi đến ngồi bên ngoài trước cửa mục trường... Có Chúa Trời chứng giám cho rằng, mặc dù ngọn lửa yêu đương đang thiêu đốt, nhưng trong tôi không hề có một tà ý nào; chỉ có niềm kiêu hãnh lớn lao khi nghĩ là trong một góc của mục trường thật gần gũi, với đàn cừu tò mò nhìn ngắm nàng ngủ, người con gái của chủ nhân tôi - như một con cừu cái quý giá nhất và tinh tuyền nhất hơn tất cả mọi loài tạo vật khác - đang ngon giấc, đã tin cậy vào sự canh giữ của tôi. Dường như với tôi, bầu trời sâu thẳm hơn bao giờ hết, những vì sao thật rực rỡ... Thình lình tấm liếp mục trường bật mở, và người đẹp Stéphanette xuất hiện. Cô không thể chợp mắt được. Những con cừu khuấy động làm rơm “lạc xạc” hoài, chúng lại kêu be be trong lúc ngủ. Cô ấy thích đến ngồi gần đống lửa hơn. Thấy thế, tôi choàng lên vai cô gái mảnh da của con dê cái, khơi lên thêm ngọn lửa, và chúng tôi lại ngồi gần bên nhau mà không nói một lời nào. Nếu có bao giờ các bạn qua đêm dưới bầu trời đầy sao, các bạn sẽ biết là vào giờ khắc mà chúng ta đang yên giấc, một thế giới huyền bí đang tỉnh thức trong cô đơn và tĩnh lặng. Thế là những dòng suối cất tiếng hát rất rõ ràng, các ao đầm thắp lên những tia lửa nhỏ. Tất cả thần linh núi đi lại một cách tự do; và trong không gian những sự lướt đi của tiếng động ta không cảm thấy được đó như thể chúng ta nghe thấy các cành cây đang vươn lên, cỏ đang mọc cao. Ban ngày là đời sống của nhân sinh, nhưng ban đêm là cuộc sống của các sinh vật. Khi không quen, điều đó làm ta sợ hãi. Quý cô của tôi cũng thế, nàng run rẩy và nép sát vào tôi khi có tiếng động nhỏ. Một lần, có tiếng kêu dài, buồn bã từ ao hồ lóng lánh từ dưới xa kia đang lượn sóng nhấp nhô vọng lên đến nơi chúng tôi. Cùng lúc đó, một vì sao băng đẹp đẽ lướt ngang trên đầu chúng tôi trong cùng một hướng như là lời than thở mà chúng tôi vừa nghe đó đã mang một ánh sáng đi theo. Stéphanette khẽ hỏi tôi: - Cái gì thế? - Một linh hồn vừa lên thiên đàng, thưa cô chủ; và tôi làm dấu thánh giá. Cô cũng làm dấu thánh và ngước đầu nhìn lên không gian trong chốc lát, rất nhập tâm. Rồi nàng nói với tôi: - Có phải là các mục đồng thật sự là những phù thủy không vậy anh? - Tuyệt không phải một tí nào cả, thưa cô. Nhưng ở nơi nầy, chúng tôi sống rất gần với những vì sao, và chúng tôi hiểu biết điều gì xảy ra khá nhiều hơn các người ở đồng bằng. Cô nàng nhìn mãi trên cao, đầu ấp trong bàn tay được quấn quanh tấm da cừu như một mục đồng thiên quốc. - Có những vì sao đẹp quá chừng, chưa bao giờ tôi nhìn thấy như thế. Anh có biết tên của chúng không? - Vâng thưa cô chủ... Xem nào! Ngay trên đầu chúng ta, kia là Con đường của thánh Jacques (dải Ngân Hà). Nó đi từ nước Pháp thẳng đến Tây Ban Nha. Đó là do thánh Jacques de Galice đã vạch ra để chỉ đường cho vua Charlemagne dũng cảm khi ngài đánh trận với người Sarrasins. Xa hơn nữa, cô thấy Chiếc Xe Ngựa của các linh hồn (sao Đại Hùng) với bốn trục bánh xe chói sáng đó. Ba vì sao tiến về phía trước mặt là Ba Con Vật Kéo Xe và ngôi sao nhỏ bé cạnh ngôi thứ ba là Người Đánh Xe. Cô biết không? Chung quanh chúng ta trận mưa sao rơi xuống nầy là những linh hồn mà Đức Chúa Trời không muốn đem vào Thiên đàng... Thấp hơn một chút, đây là Cái Cào hoặc là Ba Vua (Người Khổng Lồ). Với chúng tôi, nó dùng như một chiếc đồng hồ vậy. Chỉ nhìn chúng thôi là tôi đã biết bây giờ nửa đêm đã qua rồi. Dưới hơn tí nữa, về hướng nam sao Jean de Milan luôn chiếu sáng, ngọn đèn của các thiên thể (sao Thiên Lang). Đây là những gì mà các bạn mục đồng kể về vì sao ấy. Hình như có một đêm, sao Jean de Milan, với sao Ba Vua và sao Rua được mời dự tiệc cưới của một vì sao trong các bạn của họ. Người ta kể sao Rua vội vàng hơn đã lên đường trước tiên và đi theo con đường trên cao. Cô hãy nhìn xem ở tận cuối trời đó. Sao Ba Vua đi đường tắt ngắn hơn và bắt kịp sao Rua. Nhưng sao Jean de Milan lười biếng ngủ dậy trễ, nên giận dữ đã quăng ra chiếc gậy để ngăn cản họ. Cũng vì thế mà sao Ba Vua cũng được gọi là Cây gậy của Jean de Milan. Nhưng thưa cô chủ, vì sao đẹp nhất hơn tất cả các vì sao là của chúng tôi, Ngôi Sao Mục Đồng, soi sáng chúng ta lúc bình minh, khi chúng tôi lùa đàn cừu ra đồng cỏ và trở về lúc ban chiều. Chúng tôi còn gọi tên là Maguelonne, nàng Maguelonne xinh đẹp theo sau vì sao Pierre de Provence (sao Thổ) và kết duyên với chàng cứ bảy năm một lần. - Thế nào hở anh mục đồng? Lại có những hôn lễ của các vì sao nữa à? - Thưa cô chủ, có chứ. Và khi tôi cố gắng giải thích cho nàng về những gì trong các lễ cưới ấy, tôi lại cảm thấy một vật gì đó tươi tắn, mịn màng ngã nhẹ xuống vai tôi. Cái đầu nặng vì buồn ngủ dựa vào tôi với cái băng cài đầu xinh xắn bị nhăn nhúm, chiếc áo viền đăng ten nhàu nhĩ và mái tóc phất phới. Nàng cứ ngồi yên như thế không động đậy cho đến lúc mà lúc các tinh tú của bầu trời mờ nhạt và bị xóa mờ bởi ngày đã lên. Còn tôi, tôi nhìn nàng đang say giấc, một chút xao động tận đáy tâm hồn, nhưng được chở che một cách thánh thiện bởi một đêm trong sáng thế này nên hơn bao giờ hết chỉ có những tư tưởng đẹp đẽ mà thôi. Các vì sao vẫn tiếp tục con đường đi lặng lẽ, thuần lương của mình, như một đàn gia súc vĩ đại; và vào những lúc này đây, tôi tưởng tượng rằng một trong vì sao nhỏ nhất, rực rỡ nhất bị lạc đường, đã đậu xuống trên vai tôi để nàng yên giấc ngủ... HOÀI LY dịch * mục trường: le parc = nơi nhốt gia súc ở trên núi
Tình sử Đông phương
BÁO THÙ CHỒNG Thân Đồ Thị, con gái Thân Đồ Kiền, người về đời Tống, quê ở Trường Lạc, vì mến phẩm cách của Mạnh Quang mới đặt tên là Hỳ Quang! Nàng rất đẹp và rất thông minh, năm lên mười tuổi đã biết làm văn, sách vở chỉ coi một lượt là nhớ mãi mãi. Anh nàng thích thói cao thượng của người ẩn dật, quanh năm thường ở ngoài biển câu cá, thả chài. Một hôm, hắn sắp ra biển, nàng tiễn bài thơ như vầy: Giây tơ cần trúc cuộc sinh nhai, Trước mắt mông mênh nước với trời Xuôi ngược miếu sông, hồ rượu vẩy, Ngày đêm thuyền biển, ngọn đèn soi. Trong mù thổi ốc, mồi câu thả, Đáy bể buông neo, giấc mộng dài, Chớ ngại mái chèo cơn sóng gió, Đai bằng sóng gió giữ bằng hai. Cha nàng thấy nàng khác thường, nên vẫn dè dặt sự gả bán. Lúc ấy, ở miền Hầu Quan có người thiếu niên tên là Đồng Xương, vì thi tú tài được đậu bậc ưu, tiếng đồn đến tai Thân Đồ, ông bèn gả nàng cho chàng. Khi sắp xuống thuyền để về nhà chồng, nàng có bài từ biệt bạn gái như sau: Chị em đầy cửa với trông, Khôn ngăn buồm gió thuận giòng chạy xuôi. Ngàn tiêu lác đác mưa rơi, Đầy sông hoa nghệ say mùi trời thu Trăm năm một kiếp phù du, Vòng nhân thế ấy, đám phù vân kia. Nước trôi giọt lệ đầm dìa, Một đêm thuyền đã xuôi về Mãn Châu. Sau khi đến nhà Đổng Xương nàng thôi hẳn sự ngâm vịnh. Càng thấy nhà chồng nghèo túng, nàng càng chịu thương chịu khó, làm ăn vui vẻ như thường. Bấy giờ, trong quận Hầu Quan có tay đại hào là Phương Lục Nhất, chính là “con cọp đội mũ” của một vùng ấy. Nghe thấy tiếng nàng xinh đẹp, hắn rất say mê, liền ngầm sai người vu cho Đổng Xương một tội rất nặng, phải giết cả họ. Lục Nhất giả vờ ra sức xoay-sỏa, chạy cho án ấy được giảm, chỉ có một mình Đổng Xương phải chết, vợ con đều không việc gì. Xong việc, hắn bèn cho người nói rõ đầu đuôi với nàng, ngỏ ý hỏi nàng làm vợ. Nàng biết chồng nàng bị tội là tại mưu gian của hắn, tức thì giả cách nhận. Luôn bữa đó, nàng đem con đi gửi người bạn của chồng rồi kiếm một con dao nhọn thật sắc, giắt vào trong mình, tự mình đến nhà Lục Nhất và nói với hắn: “Thiếp đã mười phần chắc phải mất đầu cả mười, nhờ nghĩa cao của ông mà còn được sống ở đời, thân thiếp tức là cái thân của ông, đâu dám không vâng lời ông. Hiềm vì Đổng Xương chết còn chưa chôn lòng thiếp cũng hơi thương xót, xin ông để thiếp đắp điếm cho hắn xong rồi sẽ xin thành hôn”. Lục Nhất rất mừng, liền sai chôn cất Đổng Xương rất hậu. Nàng cũng giả cách mừng rỡ xin vào ở riêng một buồng. Đêm ấy, Lục Nhất vào nằm trong màn, nàng rút dao nhọn đâm cho một nhát. Lục Nhất chết không kịp trối. Chờ đến canh khuya, nàng lại giả hô hoán, nói là Lục Nhất phải cảm và gọi người nhà vào buồng. Người nhà tưởng thật, lần lượt chạy vào. Vào người nào, nàng đâm chết luôn người ấy. Chết hết cả nhà Lục Nhất, nàng cắt đầu hắn bỏ vào túi đem đến bên mồ Đổng Xương, vừa cúng vừa khóc. Rồi nàng gọi những người chung quanh, nghẹn ngào kể lể… Sau đó, nàng cởi dải lưng thắt cổ chết theo chồng. GIANG CHÂU - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.
Tranh của danh họa Mai Thu
Phụ Bản IV
XÓM NHỎ ĐIÊU TÀN Khó để gọi là “xóm nhỏ điêu tàn”, nhưng thật ra, chuyện điêu tàn là có thật! Cứ tạm định nghĩa xóm nhỏ là xóm có lối đi không vừa cho xe bốn bánh ra vào, dù nó có thể có nhà cao tầng mươi tấm! Và vì nhỏ, nên điêu tàn dễ xuất hiện… 10g đêm, đáng lẽ volume phải vừa đủ nghe chứ! Nhưng đủ là đủ thế nào với những lỗ tai cây, hay với những kẻ rảnh, máy thì cứ oang oang, mà khề khà tám đủ mọi thứ chuyện trời ơi! Đố mà học sinh đi ngủ sớm được như sách giáo khoa dặn dò, như bác sĩ hướng dẫn, như trên TV, người ta đang toang toác giữa đêm cho mọi người… thấu hiểu! Roạc roạc! Ai đó kéo cái then cổng sắt bề thế, sau khi đã bấm còi inh ỏi kiểu “má ơi con về nè”. Sau cú loạc roạc và lạch cạch ấy, xe ủn ủn vào nhà. Lại loạc roạc và lách cách, vì phải đóng cổng chứ sao! Có tiếng nước xối trong nhà tắm lan man trong tiếng hát mãi xanh, bên cạnh lời luận bình rôm rả của khán thính giả TV. Rồi im! À! Hôm nay, ngon! À! Thì ra họ đọc kinh, chắc là đọc kinh đi ngủ! Vừa Amen xong, thì TV trở lại. Hoành tráng hơn! Ồn ào hơn! Vì hình như đang có phim hành động chíu chíu bùm bùm loạn xị! Cái, tới phim tàu leng keng lẻng xẻng! Cái, có pha sút banh Dzô…ô…ô… Trời! Sút mẹ nó ra ngoài rồi ông cố nội! Xe lại về khi đồng hồ chỉ 11 giờ y chóc! Nhà này thì rột rột, làm như tiếng cửa cuốn đang cuốn theo chiều… thức! Thức chờ người đi nhậu về ấy mà! Vì có giọng lè nhè! Vì có giọng thở than! Hai thứ ấy hòa lẫn với nhau dường như chưa đủ hay sao á, mà lại có xe lủi vào xóm với tiếng nẹt pô khi bị ách lại chỗ hai vợ chồng gã nhậu mới về nọ, cà khịa nhau giữa trăng khuya! Rồi, tuy thỉnh thoảng có loa phát “bánh giò bánh chưng đây”, thì cơn buồn ngủ cũng tạm đi vào lòng người, dẫu nhà ai đó đang bình luận: - Thằng Tí hôm nay bị… té re đó! - Sao vậy? - Ai mà biết, nó còn ói mấy lần nữa nha! - Ăn gì mà ói? Ở nhà trẻ hôm nay ăn gì? - Ai mà biết, vì có thấy thực đơn đâu? - Họ nói có thực đơn đàng hoàng đấy chứ, nhưng vì sợ mưa nên cất tấm bảng đi… dài dài! - Sao hôm nọ, có người còn cười cười, nói tại lười nên chẳng mang ra mang vào, mệt! - Thôi, gửi con thì ráng chịu chứ biết kêu ai… Giấc ngủ nông nông thì phải bật dậy nghe nghe ngóng ngóng! Ngóng gì mà ngóng, vì thằng nào đó đang la làng như cha nó chết kìa! À! Nó đang hú, gào, hét: - Chị Toét ơi chị Toét! Mở cửa cho em! Im re! 2g30 sáng! - Chị T…o…é…é…t! Mở cử…ử…a…! Cân sai líp là kíp sai lân! Keep Silent! Vẫn im re bà rè sốt ruột! Chắc nó đi làm về khuya? Chắc nó đi tăng hai về muộn? Chắc nhà nó… hâm? Cỡ bảy tám lần gì đó thì bài ca loạc roạc, loạch roạch, lách cách, lịch kịch lại vang lên cùng với tiếng động cơ gào lên để ngoi vào nhà… Thế là giấc ngủ đành lơ mơ, đến độ có thể nghe tiếng muỗi tỏ tình đâu đó, nói gì tiếng lẹt xẹt của ai đó đi trong đêm khuya! 4g00 sáng chuông nhà thờ nhắc nhở! Lười thấy bà, ai mà đi nổi? Nhưng thỉnh thoảng vẫn có người loạch xoạch mở cổng đi về phía nhà thờ… Rồi “bánh mì nóng đây, bánh mì đặc ruột đây!” cứ tha thiết vang lên. Quỷ thật! Thế mà cũng có kẻ mở cửa mua, có lẽ tối hôm qua chỉ có bia trong bụng! Cậu bán bánh rong cứ để cái loa tông tổng khi trời chưa sáng như thế! Tiếng mời chào của nó vang lên đến tận lầu cao nhà ai đó, khiến có giọng nữ tru tréo: - Tắt mẹ mày loa đi… Kịp nhận ra sự vô duyên của cái loa, anh chàng đói sớm giả lả cũng bằng cái giọng oang oang toàng toàng, kề trong hai bàn tay làm loa vì e rằng người nghe… khiếm thính: - Em đây chị… ấy ơi! Chị ấy chẳng nói nên lời, chỉ dập hơi… mạnh cánh cửa sổ, tỏ vẻ “ai chị em gì với mày” Chân đi qua, dép xệt lại. Kẻ mở cổng cho người đi lễ, kẻ đi bán buôn, xe ôm, xe đẩy… Xong lễ, người ta lại trở về. Lúc này đã 5g30 sáng… Nhớ ngày xưa có ông cụ, mỗi sáng sớm đi những 2 lễ. Về ngang nhà, ông hát inh ỏi cả ra. Mà chẳng ai giận! Phần vì ông nghèo quá! Phần ông chỉ hát thánh ca, những bài ca ông mới nghe trong buổi lễ lúc nãy… Thế nên, tuy cuộc sống sung túc hơn, tuy nhà cao cửa rộng hơn, nhưng xóm nhỏ xem ra “điêu tàn” hơn ngày rách rưới, chỉ vì người ta không còn biết đến sự yên ả cho xóm giềng, nhất là khi đêm đã sâu, sâu lắm! LAM TRẦN
XUỐNG HẦM NÚP CÒN TẬP KIỀU
PHI VIỆT Thuở nọ vào năm 1944, máy bay của Đồng minh Anh - Mỹ - Pháp ngày ngày bay từ xứ Chiêu-Nam (Singapour) bay đến Sài-Gòn bỏ bom oanh tạc Nhựt-Bổn. Mỗi ngày lối 9 hay 10 giờ sáng là máy bay Đồng-minh ào ào kéo tới. Còi báo động từ Nhà Giây Thép hụ lên, thiên hạ kéo nhau chạy xuống hầm núp. Ngày nọ trong hầm núp ở đường Bonard, là đại lộ Lê Lợi bây giờ, hai đồng bào gốc Nam-Định đụng đầu nhau, họ lấy làm vui mừng, cùng nhau kể lể những chuyện xưa tích cũ hồi họ ở xóm Khâm-Thiên, lúc họ ở Hà-Nội bán phở. Cạn chuyện rồi, mà còi báo động chưa hụ cho lên hầm, hai anh buồn ý, giở chuyện tập Kiều ra. Họ đồng ý mỗi người lựa một câu Kiều để ráp lại thành một bài thơ diễn tả cảnh núp máy bay. Một anh khởi xướng: Nàng rằng: tiền định tiên tri. Rồi anh tỏ khoái chí khen vợ anh ta bói giỏi, vì ngày hôm qua vợ anh đã nói thế nào bữa nay máy bay Đồng Minh cũng đến bỏ bom, mà bỏ bom là một việc của Đồng Minh đã định rồi đó. Anh kia bươi trong trí nhớ một hồi rồi nói: “Mùa nầy là mùa gió Nam, máy bay là những con chim đại bàng sắt thép, từ ở ngoài khơi biển Nam Hải, tức ở Singapour, bay đến, vầy thì tôi xin nối theo: Gió đưa bằng tiện đến kỳ dặm khơi” Hai anh em ráp hai câu lại, vỗ tay khen rân. Một anh lại nói: “Nhưng mà khi máy bay tới, ốc hụ lên, bà con mình ai ai cũng lo sợ lộ ra mặt, nên tôi xin tiếp theo: Mặt trông đau đớn rụng rời”. Anh nọ khen: “Hay lắm! hay lắm! Quả thật vậy, ai mà không bủn rủn tay chơn? Có bữa tôi xuống hầm không kịp, đã phải bò càn. Không khiếp sao được, vì máy bay tới là nó tưới bom tới cả dây, rồi nhà cháy, rồi khói lên, đồng bào ta chết. Thật là: Ầm ầm sát khí ngất trời ai dang!” Hai anh em vỗ tay bôm bốp, khen nhau chẳng tiếc lời, rồi đọc hội lại bốn câu tả cảnh máy bay Đồng-Minh bỏ bom xuống Saigon: Nàng rằng: tiền định tiên tri, Gió đưa bằng tiện đến kỳ dặm khơi Mặt trông đau đớn rụng rời Ầm ầm sát khí ngất trời ai dang! BÙI ĐẸP st.
Sự lương thiện không qua sát hạch
Một ngày nọ, có một người đàn ông tên là Walter Salles vào thành phố làm việc, ông đi ngang một cậu bé đánh giày khoảng mười mấy tuổi ở quảng trường nhà ga xe lửa, cậu bé đánh giày hỏi ông: - Thưa ông, xin hỏi ông có cần đánh giày không ạ? Walter cúi đầu nhìn đôi giày chưa quá bẩn của mình, ông lắc đầu từ chối. Khi Walter chuẩn bị đổi tàu thì cậu bé lúng túng, ngượng ngùng, đôi mắt ánh lên sự cầu xin: - Thưa ông, cả ngày nay cháu chưa ăn gì rồi, xin ông có thể cho cháu vay một chút tiền được không ạ? Cháu sẽ cố gắng đánh giày, một tuần sau cháu sẽ trả lại tiền cho ông! Walter nhìn cậu bé trước mặt mặc bộ quần áo rách rưới, cả người gầy gò, thế là ông móc túi đưa cho cậu bé vài đồng xu. Cậu bé vô cùng cảm kích nói lời cảm ơn ông rồi chạy đi như bay. Khi đó, Walter nghĩ thầm: “Lại là một thằng nhóc lừa đảo…” và rồi ông đã quên bẵng đi… Cho đến vài tuần sau, Walter lại đi ngang qua trạm xe lửa, đột nhiên ông nghe thấy giọng nói từ xa vọng lại: - Thưa ông, xin ông đợi một lát! Khi đó, ông nhìn thấy một cậu bé gầy gò chạy đến đưa cho ông mấy đồng xu, lúc này Walter mới nhận ra cậu bé này chính là đứa bé đánh giày đã mượn ông tiền. Cậu bé vừa thở hổn hển vừa nói: - Cháu đã đợi ông ở đây rất lâu rồi, rốt cuộc hôm nay cũng đã trả được tiền cho ông. Walter cầm trong tay những đồng xu còn ướt đẫm mồ hôi của cậu bé, đột nhiên ông cảm thấy đứa trẻ này thật đặc biệt. Thế nên bỗng nhiên ông có một suy nghĩ, ông thấy cậu bé này rất phù hợp với hình tượng nam chính trong kịch bản mới của mình. Hóa ra Walter là một đạo diễn và khi đó ông đang chuẩn bị phần tiền kỳ cho bộ phim, ông đã quan sát các sinh viên của trường diễn xuất không dưới một trăm lần, nhưng đều không vừa ý. Lúc này, ông nhận ra rằng cậu bé này có thể là nam chính trong bộ phim của ông. Và rồi ông lấy vài đồng xu ra và nói với cậu bé rằng: - Số tiền này là chính tôi muốn cho cháu, không cần trả lại. Ngày mai cháu hãy đến văn phòng đạo diễn ở công ty điện ảnh trong thành phố tìm tôi, tôi sẽ cho cháu một niềm vui bất ngờ lớn hơn. Nói xong, Walter rời đi, trong lòng cảm thấy rất ấm áp và bắt đầu hy vọng vào cậu bé này. Hôm sau, bảo vệ công ty điện ảnh nói với Walter rằng trước cửa có một nhóm trẻ con mặc quần áo rách rưới đến. Walter vô cùng ngạc nhiên, ông đi ra cửa thì thấy cậu bé ngày hôm qua chạy đến, vui vẻ nói: - Thưa ông, họ đều cũng là trẻ mồ côi lưu lạc không có cha mẹ giống như cháu, các bạn ấy cũng hy vọng có được niềm vui bất ngờ ạ! Walter không thể nào ngờ được một cậu bé vô gia cư nghèo khó lại lương thiện đến thế. Nhưng sau khi quan sát, ông nhận ra quả thật là có vài đứa trẻ khác trong số đó phù hợp với vai nam chính trong kịch bản của ông hơn. Dù vậy cuối cùng Walter đã quyết định chọn cậu bé đánh giày này và ông viết trong hợp đồng lý do mà ông chọn cậu bé là: Sự lương thiện không cần qua sát hạch. Cậu bé này chính là Vinícius de Oliveira người Brazil, cậu chủ nhỏ trong bộ phim “Central Station” (hay “Central do Brasil”) nổi tiếng của đạo diễn Walter Salles, bộ phim này đã nhận được hơn 50 giải thưởng, chiến thắng giải “Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất” tại Quả Cầu Vàng 1999 và còn nhận được 2 đề cử Oscar năm đó. Vài năm sau, Vinícius de Oliveira cũng mở một công ty điện ảnh và làm chủ tịch, anh còn viết một quyển tự truyện có tên là “Cuộc đời diễn viên của tôi”. Trên trang bìa trong của quyển sách có dòng chữ viết tay của ông Walter: “Sự lương thiện không qua sát hạch” và đánh giá của ông về Vinícius de Oliveira: “Vì lòng lương thiện, cậu từng đem cơ hội nhường cho người khác; cũng vì sự lương thiện ấy, cơ hội trong cuộc đời chưa từng bỏ qua cậu”. HOÀNG CHÚC st.
Món quà của Cha
- Chú ơi, tiền của chú là tiền giả. Cô nhân viên bán hàng bực dọc nói với một giọng điệu chua chát. Người đàn ông bức xúc trả lời: - Giả là giả thế nào, cả ngày lao động quần quật của tôi. Cô nhân viên bán hàng với vẻ mặt lạnh lùng nói tiếp: - Đây, chú cầm mà xem. Người đàn ông cầm lấy tờ tiền trị giá 200 ngàn lật đi, lật lại, ngắm nghía, soi xét. Ông ta bỏ tiền vào túi, cất tiếng thở dài nặng chịch rồi lẳng lặng bước ra khỏi shop quần áo. Cô nhân viên bán hàng với vẻ mặt phấn khởi quay sang nói với đồng nghiệp của mình: - May quá, tao đã đổi được tờ tiền giả đó đi rồi đấy. Cô đồng nghiệp hốt hoảng nói: - Sao, mày đổi tiền của chú ý à? Cô nhân viên nói tiếp: - Nhân lúc ông ấy không để ý tao đã đánh tráo tờ tiền. Cô đồng nghiệp bức xúc trả lời: - Sao mày ác thế, mày không thấy chú ý khổ, và tội nghiệp thế sao? - Thế người ta không ác với tao sao, người ta cũng tráo tiền của tao, mà tao có làm ra tiền giả đâu. Cô nhân viên đưa ra một lý lẽ hết sức vô lý. Cô đồng nghiệp lắc đầu, thở dài rồi lặng im. Về phần người đàn ông kia, sau khi lẳng lặng bước ra khỏi shop quần áo, ông ta bước những bước nặng nhọc, hai chân liêu xiêu đi không vững. Trên khuôn mặt khắc khổ với những nết nhăn hằn lên trên trán, hai má hóp vào làm cho gò má như nhô cao lên, làn da đen sạm vì cháy nắng. Tóc tai bù xù điểm vài sợi bạc, quần áo xộc xệch, chân đi đôi dép với đế đã mòn sát gót chân. Ông ta tiến lại gần chiếc xích lô của mình chậm chạp ngồi lên đằng sau, chán nản, nhăn mặt dùng hết sức để đạp lên chiếc bàn đạp làm cho chiếc xích lô nặng nhọc lăn bánh. Đi được một quãng rồi ông dừng lại, bỏ chiếc mũ cối đã sờn màu xuống đằng trước chiếc ghế xích lô. Ông lại bỏ tờ tiền ban nãy ra ngắm đi ngắm lại, rồi chán nản vứt tờ tiền giả đó vào một thùng rác bên cạnh. Rồi ông lại cho xe lăn bánh tiếp, ông đăm chiêu suy nghĩ: “Không biết lấy tiền đâu ra để mua cho con gái bộ quần áo mới để nó đi học”. Chuyện là: vợ ông ta vì mắc bệnh hiểm nghèo đến nỗi phải bán cả nhà cửa đi để chạy chữa thuốc thang, nhưng vợ vẫn không qua khỏi. Từ ngày vợ ông mất, ông sống cảnh gà trống nuôi con, nhà cửa không có, hai cha con phải đi mướn nhà trọ để ở. Mặc dù đói ăn, túng thiếu nhưng ông vẫn cố gắng đạp xích lô hàng ngày trên đường phố để kiếm tiền cho con ăn học. Ông có cô con gái rất dễ thương xinh xắn, ngoan ngoan lễ phép, hai cha con nương tựa nhau để sống qua ngày. Một năm học mới đã đến, chúng bạn mặc quần áo mới, vai đeo cặp tung tăng đến trường. Con gái ông vẫn mặc chiếc áo cộc lốc, hẩm mầu, vún vế, cùng với chiếc quần đã sờn màu, cộc lên qua mắt cá chân. Biết bố vất vả cùng gia cảnh túng thiếu nên cô không đòi bố mua quần áo cho mình. Thấy thế dù ốm đau, mệt nhọc ông vẫn cố đi làm để mua cho con bộ quần áo mới để con đi học. Vẫn theo quán tính của chiếc xích lô, ông đang mải nghĩ ngợi thì có một người phụ nữ trông sang trọng, quý phái vời ông và gọi: - Xích lô! Đưa tôi đến số 50 Hoàng Hoa Thám. Ông không nói gì mà chỉ gật đầu. Người phụ nữ ngồi lên chiếc xích lô rồi hỏi bao nhiêu tiền? Ông nói là 40 ngàn. Người phụ nữ đưa ông 50 ngàn và nói không cần trả lại. Chiếc xích lô cứ vậy lăn bánh, rồi bỗng dưng chiếc điện thoại trong túi của người phụ nữ reo lên, cô ta kéo khóa túi để lấy điện thoại rồi vô tình làm rơi chiếc ví ra ngoài. Chiếc ví vẫn nằm ở trên chiếc ghế đằng trước xích lô. Ông ta biết là chiếc ví của người phụ nữ bị rơi ra mà không lên tiếng. Phải chăng lòng tham của ông nổi lên, hay là vì ông muốn có tiền để mua bộ quần áo mới cho con mà không nói với người phụ nữ. Chiếc xích lô tiếp tục lăn bánh cho đến khi dừng ở số 50 Hoàng Hoa Thám. Người phụ nữ bước xuống tiến vào ngôi biệt thự to lớn mà không hay biết mình để quên ví tiền trên chiếc xích lô của người đàn ông kia. Ông ta không nói gì, nhìn theo dáng đi người phụ nữ với vẻ mặt lo sợ, cho đến khi cô ta bước vào trong thì ông mới quay lại và lẳng lặng cho xe lăn bánh tiếp, và hiển nhiên là chiếc ví vẫn nằm trên chiếc ghế xích lô. Ông quay lại chỗ shop quần áo ban nãy, đến nơi ông dừng lại, xuống xe cầm chiếc ví trên tay ông mở ra thấy có rất nhiều tiền và giấy tờ quan trọng. Ông định bụng sẽ lấy tiền đó để vào shop mua quần áo cho con. Rồi ông lại lưỡng lự suy nghĩ: “Mình nghèo thật nhưng không thể dùng số tiền này để mua quần áo, dù mình không cố tình lấy cắp, nhưng nếu tiêu số tiền này mình chẳng khác gì kẻ trộm”. Sự thật thà, chất phác cộng với lòng ngay thẳng đã chiến thắng tà ý trong con người ông. Rồi ông quyết định lên xe quay về chỗ dừng chân của người phụ nữ. Khi đến nơi ông bị hai người đàn ông to lớn lao vào đánh mà ông không kịp hiểu lý do. Có lẽ đây là những người mà người phụ nữ thuê để đi tìm lại chiếc ví, họ nghi ông lấy cắp nên đã lao vào đánh. Những người đàn ông hung tợn này giáng những cú đánh thật mạnh lên người ông khiến ông nhăn mặt đau điếng chịu đòn. Người phụ nữ nói: - Thôi, dừng lại. Hai gã đàn ông đó không đánh nữa. người phụ nữ lại gần chưa kịp nói lời nào thì ông lên tiếng: - Sao lại đánh tôi, tôi chỉ muốn trả lại chiếc ví cô đánh quên trên xe thôi mà. Câu nói của ông khiến người phụ nữ xấu hổ cúi mặt xuống nói lời xin lỗi. Cô ta đưa ông tờ tiền 500 ngàn, nhưng ông không cầm. Rồi cô ta để trên chiếc ghế xích lô rồi cùng hai gã kia lẳng lặng bỏ đi. Ông nhăn mặt, ôm bụng vì những cú đánh ban nãy, khuôn mặt ông thâm tím, sưng tấy, người đầy vết trầy xước. Ông cầm lấy tờ tiền rưng rưng nước mắt rồi lại tiếp tục công việc chạy xích lô của mình. Đến tối muộn với số tiền có trong tay ông quay trở lại shop quần áo ban sáng. Đến nơi thì cửa tiệm đã đóng. Ông chán nản, thất vọng. Nhưng bất chợt có một cô gái, cô ta chính là cô đồng nghiệp của cô nhân viên bán hàng lúc sáng nay. Cô ta chạy lại phía ông nghẹn ngào nói: - Cháu biết chú sẽ quay lại đây, quần áo của chú muốn mua đây ạ! - Hết bao nhiêu chú gửi tiền. Ông ta vui mừng nói. Cô gái nghẹn ngào nói với ông ta: - Sáng nay, bạn cháu đã tráo của chú tờ 200 ngàn, xin chú tha lỗi cho bạn cháu. Rồi cô ấy đưa túi quần áo vào tay ông. - Này cháu - ông ta không kịp nói gì thêm thì cô gái đã chạy mất. Lúc này ông thật sự rất vui mừng vì đã mua được quần áo mới cho con. Ông chẳng hề quan tâm gì đến việc mình bị tráo tiền hay bị đánh oan nữa. Ông hớn hở đạp xe quay trở về xóm trọ nơi hai bố con ông đang ở. Ông mới về đến ngõ thì cô con gái đã chờ sẵn ở đó cô chạy lại gần ông. - Con chào bố, sao bố về muộn vậy? Cô gái với vẻ mặt lo lắng hỏi. Ông cười thật tươi với con gái và trả lời: - Ừ, hôm nay nhiều khách nên bố về hơi muộn. Ông và con gái vào nhà, ông nhìn thấy mâm cơm đạm bạc với rau luộc và mấy quả trứng mà con gái đã chuẩn bị sẵn. Ông nói với con: - Sao con không ăn trước đi rồi còn học bài. - Con học bài rồi con chờ bố về, hai bố con ăn cho vui. - Sao mặt bố lại sưng lên thế kia? Cô con gái lo lắng hỏi. - À, bố bị ngã xe con à! Có lẽ đầu óc non nớt của nó chưa thể suy nghĩ được là không thể nào bị ngã xe mà mặt lại sưng tấy và thâm tím thế kia. Nó chưa thể hình dung được là chỉ có bị đánh thì mới như thế. Con bé với vẻ mặt và giọng điệu quan tâm nói: - Từ lần sau bố đi xe cẩn thận nhé! Ông ta không nói gì chỉ cười và khẽ gật đầu. Ông đưa cái túi màu hồng xinh xắn cho con gái và nói: - Bố có quà cho con gái diệu đây! - Ôi, con cám ơn bố, quà gì thế bố? Cô con gái phấn khởi. Cô con gái mở ra và thấy có bộ quần áo mới, cô mừng rỡ lắm. Cô nói: - Vậy là mai con có quần áo mới đi học rồi. Nhìn khuôn mặt rạng rỡ vui tươi của con, ông ôm con gái vào lòng, nhắm mắt lại và những giọt nước mắt khẽ lăn dài trên hõm má. Hừng Đông - MĐ st
CHUYỆN CHIẾC
KHĂN QUÀNG Sáng sớm Chủ Nhật vợ chồng hàng xóm dắt xe ra chở con đi lễ, phát hiện ra con chưa đeo khăn quàng, chồng quát: - Tuần nào cũng vậy, tuần này là tuần cuối cùng, tuần sau như thế nữa tao đập chết mẹ mày. Đứa con vội vàng trở vào tìm rồi cũng thấy và vội vã leo lên xe, đến phiên bà vợ: - Đeo lẹ vào đi tao đập chết thằng cha mày bây giờ !!! Tự dưng vì cái khăn quàng đứa bé bị mồ côi. Năm Gia Đình của chúng ta đã bước vào năm thứ ba rồi hình như là chưa thấm vào đâu. Cùng cầu nguyện cho gia đình mình và cho những gia đình chung quanh. TB: Khi đưa chuyện này lên có người hỏi tôi: - Chuyện thật hả ? - Dạ đúng như vậy, mình có bớt đi mấy câu chửi thề cho lịch sự. Hà Mạnh Đoàn
NGỪA UNG THƯ BẰNG “4T”
Y học cổ truyền có vai trò nhất định trong việc phòng ngừa và chống tái phát ung thư. Thông tin này được các bác sĩ, dược sĩ cho biết tại hội nghị khoa học chuyên đề ung thư do Viện Y dược học dân tộc Tp.HCM vừa tổ chức. Ung thư dưới góc nhìn của Thạc sĩ Bác sĩ Quan Vân Hùng - trưởng khoa nội 2 Viện Y dược học dân tộc Tp - cho thấy nếu biết vận dụng liệu pháp “4T” theo quan điểm của y học cổ truyền sẽ giúp đẩy lùi nguy cơ mắc và ngừa tái phát. Hậu quả của ô nhiễm, stress! Theo y học hiện đại, trong cơ thể bình thường luôn có sẵn những mầm ung thư (gen sinh ung). Gen sinh ung này khi bị các yếu tố gây ung thư như độc chất, tia phóng xạ, khói thuốc lá, virus... kích động sẽ kích thích phát triển ung thư ở một cơ quan nào đó và một khối u từ từ xuất hiện. Điều đó có nghĩa ai cũng có nguy cơ bị ung thư nhưng thực tế không phải ai cũng bị ung thư. Tại sao? Y học hiện đại giải thích: vì gen sinh ung bị ức chế hoạt động bởi gen đè nén bướu, là cơ chế tự nhiên phòng bệnh chống ung thư (cơ chế miễn dịch). Có thể nói gen sinh ung luôn “kiên trì” đợi sức khỏe suy yếu (hệ miễn dịch suy yếu) và cơ thể luôn tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ gây ung để hình thành khối u rồi từ từ phát triển, xâm lấn xung quanh và di chuyển khắp người (ung thư di căn). Y học cổ truyền chia nguyên nhân ung thư ra hai loại: nguyên nhân bên ngoài là do “tà khí” xâm nhập. Tà khí là các yếu tố gây ung thư như tia nắng mặt trời gây ung thư da, vi trùng, virus, hóa chất, phóng xạ..., ăn uống nhiễm độc chất (thuốc trừ sâu, chất bảo quản...); nguyên nhân bên trong do “chính khí” suy, tức sức khỏe suy kém, suy giảm hệ miễn dịch; do các rối loạn tình chí, cảm xúc, tâm lý thái quá, chủ yếu là lo, buồn, giận, sợ kéo dài liên tục nhưng lại phải đè nén, câm nín (nuốt giận, giấu buồn - lo sợ không dám thổ lộ). Lối sống và chế độ ăn sai lầm cũng có thể gây ung thư và rất nhiều bệnh khác như cao huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, tâm thần... Theo Bs. Vân Hùng, nguyên nhân bên trong mới là nguyên nhân chính làm phát sinh bệnh ung thư. Chính tình trạng stress (bức xúc, căng thẳng) liên tục làm tinh thần bất an, luôn phải sống trong lo - buồn - giận - sợ sẽ làm gia tăng bài tiết các chất cathechomaline, glucocorticoid làm suy giảm miễn dịch của cơ thể. Liệu pháp 4T “Ung thư là chặng cuối của con đường bệnh tật đầy đau khổ. Y học cổ truyền có thể góp phần giảm nguy cơ ung thư, hạn chế tái phát ung thư bằng cách giúp bồi dưỡng nội lực (chính khí) làm tăng sức đề kháng với bệnh tật nói chung và ung thư nói riêng bằng liệu pháp 4T” - Bs. Vân Hùng chia sẻ kinh nghiệm sau nhiều năm điều trị cho bệnh nhân ung thư bằng liệu pháp 4T như vậy. Liệu pháp 4T gồm: tạo một cuộc sống tinh thần luôn bình an (thanh tâm), chế độ ăn quân bình âm - dương, tập dưỡng sinh, thuốc đông dược. Theo y học cổ truyền, lo làm hại bộ máy tiêu hóa; buồn hại bộ máy hô hấp; giận hại bộ máy vận động; sợ hại bộ máy sinh dục, tuyến thượng thận, xương tủy. Trong đó, thường xuyên lo sợ là nguy hiểm nhất vì dễ gây suy giảm miễn dịch. Vì thế, muốn tạo được một cuộc sống tinh thần luôn bình an (liệu pháp T1), không bị stress, theo Bs. Vân Hùng, mỗi người phải cố gắng giảm tối đa lo, buồn, giận và sợ. Để làm được điều này cần phải đơn giản hóa cuộc sống, giảm các nhu cầu (quả dục); trong mối quan hệ giữa người với người cần vị tha, tương trợ, thương yêu lẫn nhau. Khi gặp thất bại hay không vui, không hài lòng làm căng thẳng, lo, buồn, giận, sợ thì lập tức phải suy nghĩ tìm các khía cạnh có lợi, các mặt tích cực, cái lỗi về phía mình... để lòng được thanh thản, nhẹ nhàng. Cũng có thể phòng ngừa, chống tái phát ung thư bằng chế độ ăn uống quân bình “âm - dương”, tức cân bằng axit-base, toan-kiềm (liệu pháp T2). Theo nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng, nếu cơ thể con người có khuynh hướng toan (âm) thì hoạt động tế bào kém, các chức năng yếu đi, chất thải khó bài tiết ra ngoài, chuyển hóa cũng chậm theo, tăng gánh nặng cho gan thận, suy giảm sức đề kháng, dễ xuất hiện các bệnh mãn tính, trước tiên là cảm cúm, nhiễm siêu vi. Để giảm nguy cơ ung thư nên kiêng hẳn mỡ động vật; hạn chế thịt (nướng, hun khói, chiên), muối, đường, trứng, hóa chất (phẩm màu, hương vị thực phẩm...); nên ăn các loại rau, củ, đậu, nấm các loại, rong tảo biển, trái cây, tỏi, mè đen, gạo lứt, cá đồng...; uống đủ nước. Tập luyện thể lực làm tăng cường sức khỏe bằng phương pháp dưỡng sinh và các phương pháp khác (liệu pháp T3) sẽ giúp tăng khả năng miễn dịch, sức đề kháng. Trong khi tập ta thường thở sâu, lượng không khí tăng, nhờ vậy oxy tăng, CO2 giảm làm máu trở nên kiềm hơn và có nhiều oxy là điều kiện tốt cho tế bào bình thường phát triển, ức chế tế bào ung thư. Ngoài ra có thể tập thư giãn, chống stress; tự xoa bóp lưu thông khí huyết, chống ứ trệ; hô hấp tích cực: tập thở sâu khi mệt, căng thẳng; tập thái cực quyền. Ngoài ra, có thể tập thiền định, đi bộ chậm. Chỉ khi cơ thể quá mệt mỏi mới dùng thuốc (liệu pháp T4). Có thể dùng đông dược để bồi bổ hệ miễn dịch, bổ tinh - khí - thần như đỗ trọng, ba kích, nhân sâm, linh chi, tâm sen... LÊ THANH HÀ ghi - QUAN THÚY MAI st.
DÙNG “RỄ CAU MỌC NGƯỢC”
AN TOÀN & HIỆU QUẢ HƠN “VIAGRA” Rễ cau mọc ngược (còn gọi là rễ nổi, rễ treo) - phần rễ cau con lơ lửng trên mặt đất - là một vị thuốc có tác dụng kích dục (bổ dương) rất tốt. Theo bác sỹ Trần Danh Tài, chủ tịch Hội Đông Y tỉnh Lâm Đồng, thì chắc chắn là rễ cau mọc ngược an toàn và hiệu quả hơn “Viagra”. Nên lấy rễ vào lúc trời sắp mưa, lúc đó đầu mút rễ có màu trắng, tác dụng sẽ cao hơn. Nhân dân ta có kinh nghiệm là: nếu đầu mút rễ cau mọc ngược này có màu vàng trắng là triệu chứng trời sắp mưa to. Cách thu lượm và sử dụng : Dùng dao hay kéo cắt lấy các đoạn rễ cau lơ lửng trên mặt đất dài chừng 1,5-2cm; chẻ nhỏ, sao vàng, hạ thổ. Khi có “nhu cầu”: lấy 50g sắc với 200ml nước cho còn 50ml. Uống một lần trước khi “hành sự” 30 phút sẽ thấy hiệu quả ngay! Tuy nhiên cũng xin lưu ý: “ham muốn” phụ thuộc vào nhiều yếu tố, thuốc này (hay Viagra) chỉ bổ trợ thôi. Không nên lạm dụng. Nếu muốn “nâng cao” thì tốt nhất là “sinh hoạt” vợ chồng điều độ, rèn luyện thân thể một cách hợp lý, không hút thuốc, đừng “rượu, bia”, giữ mình không bệnh tật, tâm hồn thoải mái, quan hệ vợ chồng phải nồng ấm,… Nếu không thì thuốc “viagra” nào cũng vô dụng. Không chỉ có rễ cau , mà nhiều bộ phận khác của cây cau cũng có tác dụng trị bệnh * Những miếng CAU KHÔ BỎ HẠT (còn gọi là phúc bì) được dùng để trị các chứng phù, thũng, cổ trướng: Mỗi ngày dùng 12-20g, sắc lấy nước uống. Cũng có thể thêm vài vị thuốc khác để tăng tác dụng. * HẠT CAU (còn gọi là binh lang) dùng để điều trị bệnh lỵ do vi-rút amib: Mỗi ngày dùng 0,5-1g sắc uống. * Tẩy giun, trị sán: 50g hạt cau sắc với 150ml nước cho còn 50ml, uống một lần vào buổi sáng. Sau đó 2 đến 4 giờ uống thêm: 15-20g đại hoàng, sắc với 200ml còn 100ml, uống một lần để tẩy giun, sán ra ngoài. Lưu ý : Hạt cau và đại hoàng đều hơi độc. Sau khi uống, có cảm giác say, cho nên nếu không quen, không nên dùng và khi dùng cần được theo dõi. Những người có các bệnh về tim mạch (cao huyết áp, suy tim,…) hay gầy yếu thì không nên dùng. * BẸ BUỒNG CAU (vỏ bọc buồng cau trước khi trổ hoa, còn gọi là đại phúc bì) cũng dùng để trị chứng thủy thũng, cổ trướng như cau khô bỏ hạt (phúc bì). Liều lượng: dùng 20g sắc với 200ml nước còn 100ml, uống một lần/ngày. * PHẤN CAU là một loại nấm có mầu xanh lục, hay bám nơi gốc cây cau: dùng trị lang ben. Cạo nhẹ cho phấn bong ra, hòa với rượu bôi chỗ bị lang ben, 1-2 lần/ngày; sau 7 đến 10 ngày sẽ có kết quả. (liều lượng không hạn chế). BẢO TRÂN (Báo Thanh Niên 31-12-2007) Phùng Chí Tâm st.
MẠ TUI
Xoẹt… xoẹt… xoẹt… xoẹt… Đó là thứ âm thanh vọng vào tai tôi khi vẫn đang còn mơ mơ màng màng trong hơi ấm của tấm chăn mong mỏng. Mong mỏng vì thời tiết của một địa phần thuộc đường xích đạo này vốn được mệnh danh không có mùa đông. Một tấm chăn mong mỏng cũng chỉ được kéo đến khi vào tiết se se gần về sáng. Tôi nằm im. Lắng nghe một cảm giác êm đềm, thanh thỏa trong tiếng chim líu ríu tầng cao, cảm giác như nghe được cả nhịp rung của những chiếc lá trong làn gió nhè nhẹ mơn man, trong lay động của vạn vật trở mình khi ánh mặt trời như vẫn còn cơn ngái ngủ, trong âm thanh chiếc chổi tre cọ xát trên nền gạch. Tiếng chổi tre cho tôi hình dung ra một dáng dấp hơi cong cong cúi cúi theo từng nhát chổi, một vầng trán đã nhăn nhăn theo bao mùa mưa nắng, một đôi mắt đượm đầy nét ưu tư của bao tháng ngày lo toan tất tả, một đôi tay nổi đầy những đường gân xanh đã từng bỗng ẵm sớm khuya đến mười đứa con, một đôi chân sẫm màu đất nâu và những bụi đường với dáng đi hơi ưỡn về phía trước của phần trên và ẩy về phía sau của phần dưới, dáng đi của sự gánh gồng, dáng đi của sự thắc thỏm, dáng đi của “Mạ tui”. Tôi ngồi dậy, nhìn qua lớp kính cửa sổ. Mạ kia, vẫn màu áo nâu quen thuộc từ một miền đất rộng dài ngày mưa tháng lũ. Nhìn mạ. Tôi tự hỏi. Một vóc dáng mảnh khảnh thế kia, sao mang nổi trên vai một cái gánh nhọc nhằn nhường ấy? Không như bây giờ, một đời sống đa phương tiện, để có thể với tay là cất nhắc bớt đi chút gì chật vật. Không như ở đây, một thành phố với nhiều loại hình công việc không quá khó khăn với ngày hai bữa tàm tạm cá rau. Nơi ấy. Một mảnh vườn không quá rộng cũng không quá hẹp, vừa đủ cho biết bao là thứ rau từ gia vị cho đến luộc xào. Ngày ngày nhích nhắc dăm chục bó lớn nhỏ, theo đôi quang gánh trên vai mạ ra một khóm chợ quê, rồi lại thúc thắc trên vai mạ những gạo dầu mắm muối. Trên rẻo đường từ nhà ra đến chợ, có những con cá, con gà, mớ tôm, mớ ốc, ai đó của nhà đi bán, mạ lại chất thêm vào đôi gánh mà nhặt thêm vài đồng. Sau buổi chợ, mạ mua xon một mớ sườn heo, thịt vụn, làm một nồi cháo thơm phức chiều chiều gánh ra đầu ngõ, tối đến mạ lại cần mẫn với những lá chuối lá tre, với bột mì bột gạo, với một không gian sực nức mùi chuối mùi dừa mùi đậu mùi khoai, qua đôi tay thoăn thoắt của mạ thành ra những chếc bánh mà người quanh vùng đã quen đặt mỗi khi nhà có giỗ chạp cúng quảy. Ngơi tay bếp núc, mạ lại loay hoay với mảnh vườn. Ngày của mạ dài hơn ngày của chúng tôi nhiều lắm. Hầu như chẳng bao giờ nghe mạ thở than chuyện cực nhọc, có chăng là mạ nói: “Cực mấy mạ cũng chịu được, nhưng tụi bay phải lo học hành tới nơi tới chốn, học sao cho bằng người ta. Mạ không ưa con mạ dốt”. Vậy đó. Phải chăng nhờ thế mà chúng tôi có ngày nay. Còn nhớ hồi đó làng không có trường, anh chị em tôi phải lội bộ mấy cây số, qua một con sông để đi học. Chẳng biết giờ giấc chi cả, cứ thấy gà gáy mờ sáng là lồm cồm bò dậy đi. Có hôm đến trường mới biết chưa tới ba giờ sáng. Hóa ra ông trăng chọc quê lũ học trò. Về sau thấy con cái đi học xa xôi cực quá, mạ tôi thuê một chỗ ở gần trường cho chúng tôi, rồi cứ hai tuần một lần, mạ vượt bấy nhiêu đường nước, lỉnh kỉnh đem lên cho chúng tôi nào là gạo muối tương chao bánh quà. Ba tôi ngày đó là một công chức tầm tầm, đồng lương cũng chỉ xuê xoa một vài vặt vãnh, bất chợt một ngày ông té bịnh. Một căn bịnh không quá nan y cũng ngốn hết hơn hai năm trời thầy kia thuốc nọ. Vào khi thắt ngặt đó, mạ mới chịu để cho hai anh chị lớn của tôi nghỉ học phụ giúp việc mưu sinh. Những người phụ nữ nhà tôi giờ nhiều khi cành nanh với mạ: - Răng mạ khoẻ rứa hè? Hơn bảy mươi tuổi rồi mà cứ cùi cụi vậy chẳng ốm đau chi hết. Mạ lại cười nhỏn nhoẻn: - Tụi bây chừ… yếu như sên. Kể ra thì cũng có đôi lúc trở trời mỏi vai nhức khớp, vài viên thuốc từ cô dược sĩ mát tay là xong. Phải chăng những tháng năm gánh gồng xuôi ngược, đã tôn đúc cho mạ một sức bền bỉ dẻo dai, như một vận động viên miệt mài tập luyện bao năm tháng. Phụ nữ bây giờ, sanh một hai đứa con là ì ạch đứng lên ngồi xuống lo thở. Cũng bởi hết bàn giấy máy lạnh thì lại xe máy, ô tô. Công việc nhà thì nào là máy giặt, lò vi sóng, bếp ga, nước máy nóng lạnh. Có đâu như xưa kéo từng gàu nước, gánh từng vác củi, thậm chí là còn đun bếp bằng rạ rơm khói mịt mù. Thời nào thế nấy. Mỗi thế hệ sinh ra lại có được thêm một số hỗ trợ tiện dụng từ những phát kiến khoa học. Chẳng lẽ cứ kéo tụt con người lại mãi cái thời cực nhọc như mạ. Nhưng đã có cả một thế hệ lớn lên trưởng thành và cứng cáp từ những đôi vai mỏng mảnh của những bà mẹ quê như mạ. Chúng tôi giờ công ty nọ, cơ xưởng kia, lại vài mạng cũng ăn nên làm ra ở nước ngoài. Đón ba mạ vào phương Nam ấm áp để tránh bớt cái lạnh giá tê buốt của những cơn mưa sập sùi hàng tuần của Huế. Mạ vẫn đem theo cái nếp quê vỗn dĩ. Vẫn sớm sương trỗi dậy, loay hoay cái cuốc cái chổi. Mảnh vuờn nho nhỏ tôi trồng một số cây ăn trái cho vui mắt, có mạ vô mặt đất không còn cọng cỏ. Rồi lại lủ khủ những rau thơm rau ngò rau cải rau lang, những ớt tỏi hành hẹ… Bảo mạ làm chi cho cực, mua có mấy đồng. Mạ quen rứa rồi, ăn rau nhà mình trồng thấy ngon hơn, lại thời buổi bây giờ thuốc sâu thuốc kích thích tràn lan, ăn vô tổ mang bịnh. Rồi như thuận miệng mạ tiếp: “Còn làm được chi cứ làm, dư dả thì cho cô nhi người nạn, mạ biết tụi bay giờ làm ăn khấm khá, chuyện mấy đồng không kể chi, nhưng mà làm chi thì làm nhớ ăn ngay ở thẳng nghe con. Mạ cả đời không ăn không ăn hỏng, không giựt dọc của ai một cắc, trời cho các con mạnh khoẻ nên người là mạ vui rồi, đừng có ham nhiều tiền mà rồi để người khi kẻ nhiếc, lũ nhỏ về sau nó khổ”. Mạ là rứa đó. Không sợ đói không sợ nghèo, chỉ sợ con mình mang cái tội nhẹ vay nặng trả. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Vẫn là lời dạy chí thiết của bậc hiền nhân. - Òa, dậy rồi hả con. Đi súc miệng rửa mặt đi rồi ăn sáng. Mạ nấu hủ tiếu trong nớ rồi kìa. Mạ dừng tay chổi nhìn trực lên thấy tôi thì mau miệng. Tôi bỗng ước ngược lại là trẻ nít, để chạy ào ra rúc vào ngực mạ, để nghe mạ mắng yêu: “Cha bây, lớn xộn rồi mà…” ĐÀM LAN
BÍ MẬT NGÔI MỘ CỔ
“Mồ cụ Tổ bị quật!” Như tiếng sét nổ giữa trời quang, nguồn tin đó khiến cho cả dòng họ kinh hoàng, đổ xô vào nghĩa địa. Tôi và ba là những người đến sau rốt. Ở khu nhà mồ đông nghịt người. Ngoài người thân thích ruột rà trong họ còn có công an xã và những người hiếu kỳ. Họ túm tụm quanh ngôi mộ bị đào xới, bàn tán, chỉ trỏ về phía cái lỗ hỗng đen ngòm vừa vặn cho một người chui xuống. Tuy nhỏ tuổi nhưng vai vế của ba tôi cao nhất trong những người có mặt tại hiện trường. Ba tôi gọi người nằm dưới mộ kia là ông cố nội. Cụ Tổ có ba vợ. Người vợ cả không sinh con. Vợ hai sinh năm một nhưng toàn là gái. Người vợ bé nhất lại sinh nhiều nhất. Mười lăm người. Mười hai nữ, ba nam. Hai người con trai lớn hình dung xấu xí lại học kém. Trong khi, người con trai út mặt hoa da phấn đẹp như con gái lại học giỏi. Lớn lên, ông được làm quan nên cụ Tổ cưng hơn vàng ngọc. Đó là ông nội của ba tôi. Có lẽ vì vậy mà tiếng nói của “nhánh út” này có giá trị hơn cả. Đến đời ba tôi có giảm đôi chút vì nghèo. Dù vậy, cả dòng họ cũng không thể chối cãi được một điều là ba tôi học cao và trở thành giáo viên dạy giỏi có tiếng. Vừa nhác thấy cha con tôi, đám đông tự động dạt ra hai bên chừa lối cho chúng tôi vào. Vốn là học trò cũ của ba, anh Nghiêm, công an xã lễ phép nói: - Thưa thầy, thầy vẫn khoẻ ạ! - Cảm ơn anh, tôi vẫn bình thường! Không chờ ba hỏi, anh kể lại sự việc: - Thưa thầy, sáng nay, bác Ba Thới đi soi ếch ngang qua khu nhà mồ, chợt thấy có nhiều dấu chân lạ. Sinh nghi, bác Ba liền đến báo với công an. Khi em tới đây thì thấy cửa rào bị mở toang hoác. Cái bia mộ bằng đá cẩm thạch biến mất. Một số gạch bông bị nạy, chưa biết còn mất mát gì nữa không? Đảo mắt một vòng, tôi chẳng thấy gì lạ. Hai chậu nguyệt quế vẫn còn. Mấy bóng đèn đỏ đính ở bốn góc nhà mồ... vẫn còn nguyên. Ba tôi nhận xét: - Có lẽ chỉ mất mấy miếng gạch bông. Nhiều người lên tiếng: - Dễ không! Quý giá gì vài miếng gạch. Sợ là sợ mất của nả dưới huyệt kia! Ngạc nhiên, ba quay nhìn bà cụ vừa nói. Đó là bà Chín người trong họ: - Ý dì Chín muốn bảo bọn trộm đã... Bà Chín cướp lời: - Chớ gì nữa! Cụ Tổ nhà mình là người khai hoang, lập nên mấy cái vườn dừa, xoài Cát Hòa Lộc, xoài Châu Hạng Võ nổi tiếng khắp xứ. Hằng năm, thu lời không biết bao nhiêu mà kể. Tiền chất như núi. Cậu Hai cũng biết đó, khi cụ Tổ già yếu, biết mình sống không bao lâu, cụ đã cho xây sẵn nhà mồ nầy. Đích thân trông coi thợ thi công. Nghe đâu, dưới đó có nhiều báu vật được chôn giấu. Chắc bọn trộm đánh hơi được nên mò tới... Hình như ba tôi chẳng biết gì về chuyện nầy. Hằng năm, vào ngày mùng một Tết và ngày Thanh Minh, ông thường dắt tôi viếng mộ, cúng kiến. Những lúc ấy, ngồi dưới tán cây sứ đỏ, ba thường nhắc lại công lao mà cụ Tổ đã trải qua như chống chọi với thiên tai, thú dữ, bệnh tật... nhưng khó khăn nào cụ cũng vượt qua. Cụ biết làm những cái bẫy để loại trừ thú và xây dựng chuồng trại để chăn nuôi những con vật hiền lành. Chưa lần nào nghe ba nhắc tới kho báu, kho tàng. Chẳng biết ba tôi muốn giữ bí mật hay chẳng rõ về chuyện nầy. Trông vẻ mặt ba căng thẳng lắm! - Thì ra vậy! Ba buông thỏng. Hóa ra tiền của lại đem đến những điều không lành! Bà Chín bĩu môi, lườm mắt, trở giọng chanh chua: - Hứ! Thằng Hai, mày tính đem ba cái triết lý ra đây đặng... hù sao cà? Ai mà không biết cậu học giỏi! Ba lắc đầu, giọng buồn buồn: - Dạ, tôi không có ý đó. Nhưng qua việc này cho thấy có vàng bạc chưa hẳn đã sung sướng. Thậm chí chết còn chưa yên thân. - Nhưng không tiền, liệu cậu có sung sướng không? Chắc cậu ăn không khí trừ cơm nên không cần tiền. - Dì hiểu lầm ý tôi rồi. Ai mà chẳng cần tiền. Nhưng đối với tôi, tiền chỉ là phương tiện chớ không phải mục đích, nên... - Thôi, thôi... cậu muốn xem tiền là cái mốc xì gì cũng được. Nhưng tóm lại, bọn ăn trộm hám tiền, quật mồ cụ Tổ mình. Chắc mất sạch rồi! Nhiều người lao xao bàn tán: - Chắc không còn gì đâu! - Bây giờ tính sao đây? Anh công an xã hỏi ba: - Thưa thầy, thầy liệu sao ạ? Ba tôi mỉm cười: - Đó là chuyện của anh, sao lại phải hỏi tôi? Gãi đầu, anh công an xã cười cười: - Dạ, em biết vậy nhưng không dám. - Anh có quyền quyết định. Chuyện này thuộc quyền của anh. Đừng ngại! - Dạ, vậy thì phải gỡ thêm một ít gạch nữa. Tiếng ồ kinh ngạc rộ lên. - Trời đất! Lo bắt trộm không lo! Gỡ thêm thêm gạch làm gì cho động mồ động mả! Anh công an xã từ tốn giải thích: - Làm như vậy mới dễ quan sát phía dưới huyệt. Để tum húm vầy làm sao nhìn thấy còn mất cái gì? Mà cho người chui xuống thì sợ bị nhiễm khí độc. Bà Chín lớn tiếng: - Nhưng làm như chú thì động mồ cụ Tổ chúng tôi, cụ quở... Ba tôi bật cười trước ý nghĩ mê tín: - Dẫu sao, tụi trộm cũng động rồi còn gì! Đỏ mặt, bà Chín nói như quát: - Nè, cậu Hai. Cậu không được ngạo tôi nghe không! Đó, có giỏi thì động đi rồi lãnh hậu quả! - Được, được... để tôi lãnh hậu quả cho. Này, anh Nghiêm! Anh cứ làm nhiệm vụ! Anh công an liền cho người mở rộng cửa huyệt. Trước mắt tôi hiện ra một khung cảnh lạ lùng. Giống như một gian phòng hình hộp chữ nhật khá to, lát gạch men màu ngọc bích. Cái hòm vẫn còn giữ được sắc vàng của gỗ huỳnh đàn. Cái nắp bị nạy, lệch qua một bên, để lộ một lớp vải hoa đồng tiền đỏ trên nền vàng mục rệu. Nhiều chỗ bị bàn tay bí mật nào đó mò xốc. Bà Chín bật khóc, kể lể: - Ối trời ơi, bọn độc ác. Chúng nỡ bới cả xương cụ Tổ... Ba tôi cũng có vẻ buồn nhưng mắt ráo hoảnh, nhìn đăm đăm cái cẩm đôn mặt tròn và cái bàn gỗ mặt vuông nho nhỏ đặt bên quan tài. Trên đó, một cái hộp thiếc bên ngoài vẽ hoa văn tuyệt đẹp bị ngã nghiêng, nắp bật ra để lộ vài tờ giấy còn sót lại ở đáy hộp. Quyển sổ bị ném rơi vào một góc huyệt. Tựa như nó bị ai đó vừa tìm kiếm điều gì đó. Không toại nguyện, họ tức giận, quăng vèo nó vào một góc huyệt lạnh. Ba tôi nhảy vội xuống, nhặt quyển sổ lên, ông ngồi phịch trên cẩm đôn, tay lần giở từng trang, ngấu nghiến đọc. Nét mặt biến đổi không ngừng. Chốc chốc lại bừng đỏ, kèm theo hơi thở dồn dập rồi lại trở nên hồng hào, thư thái. Mọi người nín thở chờ đợi. Lát sau, ba tôi đứng bật dậy, nói như reo: - Đừng tìm kiếm nữa. Không mất đâu. Châu báu nằm cả trong nầy! Mọi người trố mắt nhìn quyển sổ bìa đen, giấy ngã màu vàng xỉn mà ba tôi đưa cao. Họ nhao nhao: - Ồ! Vậy là sao? - Sao lạ vậy cậu Hai? Ba leo lên, thủng thỉnh đến ngồi bên cây sứ đỏ. Mọi người ùa theo, thúc hối: - Trong đó viết những gì vậy? Ba rung rung giọng: - Cũng gần gần như nhật ký của cụ Tổ nhưng cụ không ghi lại diễn biến trong đời sống hằng ngày mà chỉ viết về số tài sản đã được sử dụng vào việc gì, tổng cộng bao nhiêu, ngày tháng năm nào. Đây, bà con hãy lắng nghe, sẽ rõ. Ba lật trang đầu, dõng dạc đọc: - Tôi không mong được trở thành vĩ nhân, chỉ muốn được làm người hữu ích, bằng việc thiện! Trang kế, ba đọc: - Ngày... tháng... năm... đã xây xong ngôi trường đầu tiên trên quê hương hẻo lánh này. Tổng số chi phí là 10 lượng vàng. Sang trang khác: - Ngày... tháng... năm..., x ây xong chùa Phước Thiện. Vừa mới khánh thành. Tổng số tiền xây dựng 15 lượng vàng. ............. Đến trang cuối. Mặt ba tái đi, giọng nghẹn ngào: - Ôi, tuổi già thật đáng ghét! Nó đã cướp đi sức lực của ta. Còn biết bao mơ ước chưa được thực hiện. Thôi thì, chỉ mong đợi con cháu sẽ tiếp nối con đường của ta đi còn dang dở. Anh công an xã kêu lên: - Thì ra trong sổ bộ tài sản của xã, vị mạnh thường quân có công đóng góp nhiều nhất cho việc xây dựng xã nhà phát triển nhưng yêu cầu ghi là VÔ DANH lại chính là cụ Tổ nhà ta! Ôi! Thật đáng kính! Đáng phục vô cùng việc làm của người xưa! Nhìn vẻ ngỡ ngàng, thất vọng của một số bà con mong được chia của, ba tiếp lời: - Và cũng đáng để chúng ta suy ngẫm “Tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tựa thiên kim!” Kho báu cụ Tổ để lại cho chúng ta chính là bài học này đây! Nguyễn Thị Mây
MỤC LỤC
Vài chi tiết về kỳ họp ngày 13.4.2019 .............. Vũ Thư Hữu Vài chi tiết về một siêu quý thư mới có ........... Vũ Anh Tuấn Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 2 - tt) ......... Lm. Giuse Ng.H.Triết Quy trình tu hành theo Chánh Pháp của Đạo Phật (tt) ........... Tâm Nguyện Nataliya Ivanovna Khalampieva ................... Thúy Toàn Tiếng nói thân thương (thơ N.I.Khalampieva) .. Thúy Toàn dịch Triết lý về Dại Khôn .......................................... Phạm Vũ Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhà ái quốc: Một nhà báo chân chính .... Đỗ Thiên Thư st Tình đất (tt) ............................................. Nguyễn Văn Sâm Thái độ của Tản Đà đối với Thúy Kiều .......... Lệ Ngọc st Đám cưới Bảo Đại ............................................ Bùi Đẹp st Hồi âm (thơ) ...................................................... Đàm Lan Mong manh (thơ) .............................. Phạm Thị Minh-Hưng Phép lạ (thơ) ................................................. Ngàn Phương Tôi đi tìm (thơ) ................................ Huỳnh Thiên Kim Bội Về nơi mới (thơ) ................................................... Hoài Ly Mơ Mẹ về (thơ) ........................................ Vũ Thùy Hương Cội rễ ta (thơ) .................................................. Thanh Vĩnh Kỷ niệm giỗ Tổ Hùng Vương (thơ) .................... Huyền Nga Họa “Kỷ niệm giỗ Tổ Hùng Vương” (thơ) ......... Thanh Vĩnh Hai Bà Trưng (thơ) .......................................... Thanh Châu Tình phụ tử (thơ) ................................................ Phước Hải Bà nội của con - Loay hoay (thơ) .................... Lê Minh Chử Cây thập giá lá dừa - Ly kem nhỏ (thơ) .............. Lê Nguyên Trời hạn tháng Sáu - Chén rượu tiêu sầu (thơ) .. Lang Nguyên Mưa (thơ) ........................................................ Quang Bỉnh Tình điên (thơ) ............................................................... Thanh Phong Tự nhủ (thơ) ....................................................... Lam Trần Gọi cho tôi (thơ) ........................... Tâm Nguyện phỏng dịch Màu xưa (thơ) ......................................... Trần Nhuận Minh Colour of yore (thơ) ................................ Vũ Anh Tuấn dịch Ca dao về tình yêu (thơ) .......................... Hoàng Kim Thư st Luật thơ (tt) ............................................. Phạm Hi ếu Nghĩa Nghiệp đời ...................................................... Kim Sơn st Những vì sao (Alphonse Daudet) .................... Hoài Ly dịch Báo thù chồng ......................................... Đào Minh Diệu Xuân st Xóm nhỏ điêu tàn ............................................... Lam Trần Xuống hầm núp còn tập Kiều .................................. B.Đ. st Sự lương thiện không qua sát hạch ............... Hoàng Chúc st Món quà của Cha .................................................. MĐ. st Chuyện chiếc khăn quàng ........................... Hà Mạnh Đoàn Ngừa ung thư bằng “4T” ........................ Quan Thúy Mai st Dùng “rễ cau mọc ngược” an toàn và hiệu quả hơn “Viagra” ...... Phùng Chí Tâm st Mạ tui ................................................................ Đàm Lan Bí mật ngôi mộ cổ .................................... Nguyễn Thị Mây
|