Hiện có 10 người xem / 2502726 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/9/2019

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có: lần này một cuốn bằng Pháp văn và một cuốn bằng Việt văn. Cuốn bằng Pháp văn là một cuốn trong có hai cuốn đóng chung mang tựa đề là Các Triết Gia Tây Phương và Các Triết Gia Đông Phương. Thật là tuyệt và vời khi các Triết Gia của hai phương trời được gặp nhau trong cùng một cuốn sách. Hai cuốn sách khổ 14x22 một cuốn dày 270 trang và một cuốn dày 370 trang (Đông Phương) được nhà nghiên cứu F.Tomlin là một cựu Giáo Sư Đại Học Bristol ở Luân Đôn viết, và được nhà xuất bản Payot in năm 1951. Đây là một nhà xuất bản mà người viết tin cậy, yêu quý ngay từ khi 3, 4 chục tuổi cho tới nay.

Và, với hai quý thư này, điều dễ thương nhất là cái gì mà 25 triết gia Tây phương và trên 30 triết gia Đông phương mà người viết chỉ phải chi có 200 đô mit , quả là đã mua được họ… rất rẻ. Thực ra thì người viết từ nhỏ đã không ham gì các triết gia triết giô gì mấy, vì trong cuộc sống đã được biết vài vị, để thấy rằng, họ nói rất hay, nhưng làm thì ít… hay vô cùng. Tuy nhiên cũng nên có sách để làm tài liệu tham khảo… nhỡ bị các mẫu hậu nhờ tra và cứu!

Cuốn thứ nhì là một cuốn sách tranh được in khá đẹp mà một vị bạn là một họa sĩ mới in và biết, cuốn sách được in khá đẹp nên sau khi giới thiệu xong, đã được một số thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ đã lên và có một bài nói chuyện ngắn về Đức Thánh Trần và có bàn về ý nghĩa hai chữ “thu thanh” của Thám Hoa Vũ Phạm Hàm được khắc ở cổng tam quan đền Kiếp Bạc. Anh Phạm Vũ nói xong, chị Đinh Thị Diệu lên tỏ ý vui mừng vì chính quyền quan tâm tới chuyện dạy sao cho các cháu học sinh biết sống có đạo đức hiền hòa. Tiếp lời chị Diệu, Bs. Tiến lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ về Ngã Ba Đồng Lộc. Bs. Tiến nói xong, anh Nhựt Thanh lên kể chuyện anh đi khám bệnh thời @ nghe vui buồn lẫn và lộn khá hay. Sau anh Nhựt Thanh, anh Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ vui, và hát tặng các thành viên bài Lời Yêu Thương của Đức Huy. Tiếp lời anh Thanh Phong, anh Thanh Vĩnh lên nói về một tập thơ cũ mà anh có. Sau anh Thanh Vĩnh, anh Chử lên hát thơ bài Tình Yêu Nồng Cháy của chính anh sáng tác. Anh Chử hát thơ xong, Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ tình cảm, nhớ về nơi chốn xưa. Sau Thùy Hương, anh Dương Tiến Cần lên nói về việc anh đến với CLB Sách Xưa & Nay và ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Tiếp lời anh Cần, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên bài “Nụ cười sơn cước”. Anh Tâm hát xong, anh Dương Xuân Định lên hát tặng các thành viên một bài ca. Anh Định hát xong, Kim Sơn lên nói kể lại chuyện đi thăm Hà Nội và hát tặng các thành viên bài “Nhớ mùa thu Hà Nội” của Trịnh Công Sơn. Kim Sơn hát xong, Thúy Mai lên hát tặng các thành viên bài Tình ca. Sau Thúy Mai, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Làng Tôi” của Trung Quân. Tiếp lời Lệ Ngọc, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc, lên hát tặng các thành viên bài Giọt Mưa Thu. Cuối cùng anh Hùng lên nói với các thành viên về một vài động thái như châm chích 10 đầu móng tay và 10 đầu móng chân để bảo vệ sức khỏe.

Buổi họp kết thúc lúc 11g20, và mọi người vui vẻ ra về hẹn gặp lại vào tháng tới.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT QUÝ THƯ

VỪA ĐÚNG 120 NĂM TUỔI ĐỜI

Hôm nay rảnh rỗi mình mở cái tủ chứa 500 cuốn sách của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20. Cuốn sách mình cầm ra là một cuốn sách cực xinh đẹp, và kích cỡ thật dễ thương. Đây là một cuốn sách cỡ 14x21, dày 144 trang, thật nhẹ nhõm thật dễ thương. Cuốn sách là một tập thơ của một trong những nhà thơ lớn nhất của Anh Quốc là nhà thơ Alfred Tennyson (1809-1892) do một dịch giả người Pháp là Léon Morel dịch ra tiếng Pháp, và được nhà xuất bản lừng danh Hachette in vào năm 1899. Nội việc được nhà xuất bản lừng danh này in cũng đủ để bảo đảm cho giá trị cuốn thơ dịch. Cuốn sách gồm 30 bài thơ dịch của nhà thơ lừng danh người Anh này. Có thể nói Tennyson là nhà thơ nổi tiếng nhất của Anh trong thời Nữ Hoàng Victoria. Mình dành ra hơn một tiếng để cưỡi ngựa xem hoa, thì mới thấy là nhà thơ và người dịch đều là những con người đặc biệt đến với nhau để làm nên những chuyện đáng kể trên đời. Đây là một trong năm trăm cuốn cổ thư đã ở bên mình trên 40 năm qua, mà mình chỉ thật sự biết rõ và đọc kỹ chưa tới 50 cuốn. Hai năm nay, sau khi đã giã từ vật dụng (Anh Pháp), mình có đọc thêm được khoảng 30 chục cuốn khác, tóm lại vẫn còn khoảng 400 cuốn chưa rờ tới, và cả đến ảnh cũng chưa xem. Trong mấy năm tới, mình sẽ tìm trong số những quý thư này của mình, những cuốn đặc biệt như ấn bản lần thứ nhất, bản in số 1, 2, 3 trong số mấy ngàn bản, những bản do các danh họa minh họa, những bản có chữ ký và thủ bút tác giả hay dịch giả đề tặng, những bản có đánh số và in bằng các loại giấy đặc biệt… vân vân và vân vân! Chỉ cần tìm được vài cuốn do các danh họa thế giới minh họa là bạn đã có thể đánh đổi chúng lấy những dinh thự xinh đẹp rồi!

Bằng chứng trước mắt là ngay cuốn thơ của Tennyson được dịch ra Pháp văn này cũng là một cuốn có lời đề tặng và chữ ký của dịch giả (mời xem minh họa). Như vậy cuốn này cũng là một cuốn thuộc loại mình đang quan tâm tìm rồi. Một điều đáng nói tới nữa là tất cả 500 cuốn sách này của mình đều đã “rơi vào lãnh vực chung” (tomber dans le domaine public) nên ai có trong tay cứ việc vô tư vô năm khai thác, chả còn dính dấp gì tới công ước Berne về bản quyền.


Cầm cuốn sách trong tay, mình thấy thu thú vì cuốn sách được đề tặng cho một thành viên của Hàn Lâm Viện Pháp tên là mít tè Lavisse, thế là thày Tuân Sắc đã chơi chung với một thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, cùng một cuốn sách, mỗi bên chơi 50 phần trăm và vui 50%...

Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN

NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ

TẬP 2

(tiếp theo số 160)

Sự sống trên trái đất là một phép mầu, suy nghĩ một chút ai cũng có thể đặt vấn đề, nếu tiến hóa là luật chung bất di bất dịch của vũ trụ, thì tại làm sao hàng tỷ tỷ tinh tú, to hơn trái đất cả vạn lần, xưa hơn trái đất cả vạn lần, lại không có những dạng sự sống như trái đất này? Nếu cùng điều kiện vật chất ban đầu như nhau (cảnh hồng hoang vũ trụ), mà chỉ có trái đất có tiến hóa thì làm sao thành quy luật chung được? Lý thuyết tiến hóa làm sao có cơ sở vững vàng được? Nếu ai đó “cãi cối” cho rằng chuyện ngẫu nhiên, đột biến chỉ xảy ra một lần rơi nhằm trúng trái đất này thì xin hãy chứng minh cái “ngẫu nhiên”, cái “đột biến” đó đi.

Trở lại vấn đề sự sống trên mặt đất này, chúng ta thấy có ba cấp bậc:

- Sự sống thực vật (sinh hồn)

- Sự sống động vật (giác hồn)

- Sự sống loài người (linh hồn).

Các dạng sống ấy được sắp đặt từ thấp lên cao, càng cao càng phức tạp và tinh túy hơn, cây cối không bao giờ có cảm giác, cầm thú không bao giờ có tư tưởng, lý trí, ý chí, tự do…

Theo luật tiến hóa vật chất vô cơ vô năng tiến hóa ra loài hữu cơ dạng thực vật, thực vật vô cảm tiến hóa ra côn trùng, cầm thú hữu cảm, cầm thú tiến hóa ra con người, có tất cả các dạng sống cấp dưới cộng thêm thượng tầng tinh thần là tư tưởng, tình cảm, lý trí, ý chí, tự do… ta gọi là linh hồn. Quá trình tiến hóa này (theo Thuyết Tiến Hóa), hoàn toàn trái ngược với đời sống thực tế.

Chẳng ai thấy những vật trung gian tiến hóa bao giờ, chỉ thấy quá trình ngược lại, con người, cầm thú, cỏ cây chết đi phân hủy, trở về cát bụi mà thôi.

Quá trình tiến hóa còn trái ngược với chân lý ngàn đời của cuộc sống. Chân lý đó được phát biểu bằng câu ngạn ngữ La Tinh: Nemo dat quod non habet (không ai có thể cho người khác cái mà mình không có). Bạn có 5.000$, bạn chỉ có thể cho người khác tối đa là 5.000$, không thể cho thêm 1 xu nào nữa! Đây là nguyên tắc muôn ngàn đời vẫn đúng. Áp dụng vào quá trình tiến hóa vật chất vô cơ vô năng (không có sự sống) lấy đâu ra chất sống để hóa thân thành thực vật, đến lượt thực vật không có cảm giác, lấy đâu ra cảm giác mà hóa thân thành cầm thú, cầm thú không có linh hồn, lấy đâu ra linh hồn để hóa kiếp làm người. Đây mới nói tới điểm mấu chốt nhất là sinh hồn, giác hồn và linh hồn, còn muôn vàn bộ phận khác cấp dưới không có, lấy đâu mà cho cấp trên: cây cối lấy đâu ra máu, thịt, tay chân, phèo phổi mà hóa ra cầm thú? Con vượn, con khỉ lấy đâu ra linh hồn để hóa kiếp thành người? Nói về nguồn gốc của cả xác cả hồn con người, thi sỹ Huy Cận (ngoài Kitô giáo) trong tập thơ Lửa Thiêng (NXB Đời Nay - 1940) có bài Thân Thể:

“ Hỡi Thượng Đế! Người nhìn xem,

Người đã cho thân thể bình thịt xương để đựng chứa Linh Hồn .

Có một điều nhỏ bé thôi, nhưng tôi vẫn tin là phép mầu, đó là việc con người cho tới nay dù đã cố gắng thực hành hàng trăm năm mà vẫn thất bại, đó là dạy cho loài linh trưởng tiếng nói của con người, dù phần thể xác người với khỉ giống nhau tới 90% và những người theo Thuyết Tiến Hóa vẫn tin và quả quyết “người bởi khỉ mà ra”, thế mà cho tới nay, chưa một con khỉ nào nói được cả. Không lẽ khỉ, vượn, vượn người lại ngu hơn con vẹt, con sáo là loài rất xa loài người, nhưng được dạy, chúng bắt chước được tiếng loài người.

Vấn đề 8:

Cũng là vấn đề cuối cùng mà người viết vẩn vơ suy nghĩ, đó là: Đã là luật tiến hóa thì phải xảy ra liên tục và tiến mãi, tại sao lại dừng ở con người không biến ra siêu người nữa? Tương lai con người sẽ về đâu? Liệu có mọc thêm 3 đầu 6 tay không?

Điều đáng nói là ngày nay mọi bộ môn khoa học đều đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối như toán học, vật lý, hóa học… thế mà các trường học lại dạy về Thuyết Tiến Hóa với những định luật của nó như là chân lý khoa học, trong khi thực chất, theo người viết đã trình bày, đây cũng chỉ là một giả thuyết, chưa có tính khoa học thực thụ, còn nhiều “lỗ hổng” mà ngay chính các tác giả Thuyết Tiến Hóa cũng không “lấp” được, đành phải “tin” thôi. Lẽ ra vấn đề giáo dục phải tôn trọng quyền tự do lý trí của con người, không được áp đặt một chiều. Lẽ ra phải xác định từ đầu đây cũng chỉ là một giả thuyết mà thôi, đồng thời cũng phải trình bày Thuyết Sáng Thế như là lý thuyết tâm linh mà đại đa số nhân loại từ ngàn xưa tới nay vẫn tin nhận.

Các nhà khoa học vĩ đại như Newton, Pasteur, A. Einstein và tuyệt đại đa số các nhà khoa học Âu Mỹ khác từ thế kỷ 19 trở về trước vẫn tin Thuyết Sáng Thế, “ và ngay cả Darwin khi đặt chân lên tàu Beagle vẫn còn tin câu chuyện Sáng Thế trong Thánh Kinh, sau 5 năm tìm hiểu ở đảo Galopagos trở về Luân Đôn năm 1837, cách nhìn của ông mới thay đổi (Nguyệt san CGvDT số 171, trang 86).

Tại Pháp từ đầu năm 2000 đã xuất hiện những bài thi tú tài (có chương trình tiến hóa) với câu trả lời như sau: “ Tôi trả lời theo sách giáo khoa nhưng tôi vẫn không tin.

“ Một giáo viên khoa học về đời sống và trái đất, có mạng cá nhân - trên đó ông bảo vệ Thuyết Sáng Thế với tư cách một giáo sư tiến sĩ ” (Sđd trang 90).

Thế giới ngày nay có 6 tỷ người, thì ít nhất cũng có 1,5 tỷ người Hồi giáo tin Sáng Thế; khoảng hơn 2 tỷ người Kitô giáo (gồm Công giáo, Tin lành, Anh giáo, Chính thống…) vẫn tin Sáng Thế; khoảng 2 tỷ những người ngoài Kitô giáo và Hồi giáo vẫn tin Trời, tin Giàng… họ cũng không chấp nhận “sỏi đá biến ra cây cối - cây cối biến ra cầm thú và cầm thú biến ra người”. Những người thờ Ông Bà không bao giờ thờ khỉ như tổ tiên mình cả. Đây là thực tế cuộc sống, không ai chối cãi được.

Trong xã hội tự do và văn minh, Thuyết Tiến Hóa của Darwin cũng chỉ là một trong hằng hà sa số các thuyết nhằm cùng một mục đích là để phủ nhận Đấng Tạo Hóa toàn năng hằng hữu.

Cách đây 4 năm, 100 nhà vật lý đã từng đoạt giải Nobel , tiêu biểu là Alexei A. Abrikosov, Masatoshi Hoshiba, Riccardo Giacconi, Wolfgang Ketterle, Carl E. Wieman, Jack S. Kilby, Martinus J.G. Veltman, Robert B. Laughlin, Horst L. Stomer, Dniel C. Tsui, Steven Chu, Claude Cohen Tannoudji, William D. Philips,… đã lên tiếng trong Hội Nghị Khoa Học tại Helsinki, thủ đô Phần Lan, tổ chức ngày 12/08/2005, đồng thanh tuyên bố: Thuyết Tiến Hóa không có cơ sở khoa học, vì dựa trên quá nhiều định đề, và càng ngày, với đà tiến triển của khoa học, càng được chứng tỏ là sai lầm .

Tuy nhiên, tại một số nước, Thuyết Tiến Hóa của Darwin được trình bày như là thuyết duy nhất có tính chung cuộc và đầy đủ lý luận khoa học nhằm bài bác niềm tin tôn giáo. Nhưng chính ông Darwin, một người tín hữu theo đạo Thiên Chúa, trong tác phẩm của ông, tựa đề On the Origin of Species trang 62, ông đã phàn nàn vì người ta khi sử dụng tác phẩm của ông vì mục đích riêng của mình đã xén bớt những lời xác tín của ông rằng: Chỉ có Thiên Chúa mới ban cho thụ tạo có hồn, tức có sự sống, nhất là con người có lý trí .

***

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)


MÔN THIỀN QUÁN

& ĐẠO PHẬT

MÀ TÔI ĐÃ ĐƯỢC DẠY

Ai cũng biết là Đức Thích Ca đắc đạo nhờ 49 ngày đêm Thiền Định, cho nên nhiều người tu Phật không thích hành trì những phương pháp khác mà chỉ muốn đi thẳng vào Thiền. Tưởng như thế là tu tắt, chóng đạt ngộ. Chính vì vậy, hai Đệ Tử của Lục Tổ là Thanh Nguyên, Nam Nhạc và con cháu đã lập ra hẳn Năm Phái chuyên tu Thiền, gọi là Thiền Tông gồm: VÂN MÔN TÔNG, PHÁP NHÃN TÔNG, TÀO ĐỘNG TÔNG, QUY NGƯỠNG TÔNG và LÂM TẾ TÔNG, chuyên dùng Thiền làm Công Năng tu tập. Các Tông này làm mưa làm gió một thời gian dài. Nhưng đến khi Thiền Sư Nguyệt Khê sưu tầm và viết lại trong CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA thì: “Pháp Nhãn Tông truyền sang Cao Ly, Vân Môn Tông đã thất truyền từ lâu, chỉ còn 3 Tông: Quy Ngưỡng, Tào Động và Lâm Tế, nhưng con cháu các Tông chỉ lấy cội nguồn gia phổ để truyền thừa với nhau. Ghi trên Pháp Quyển là Thiền Sư đời thứ mấy, nếu hỏi về gia phong tông chỉ thì ngơ ngác chẳng thể trả lời!”

Lý do là vì Đạo Phật là một môn học để Giải Thoát, không chỉ có môn Thiền mà còn phải có cả một Giáo Trình vừa lý thuyết, vừa thực hành, cần làm cho đầy đủ, vì cái nọ bổ sung cho cái kia. Như một thửa ruộng hoang, đang chứa đầy gai góc, sỏi đá, cỏ dại. Người chủ muốn trồng một giống cây mới thì trước hết phải dọn dẹp sỏi, đá. Cày, bừa cho cỏ dại chết đi, sau đó mới gieo giống mới lên thì mới thành công. Hay như một cái chai cũ. Từ trước đến nay chứa đựng đủ thứ trong đó, nên vừa dơ, lại vừa hôi. Muốn đựng nước hoa thì trước phải súc, rửa cho sạch thì mới không bị mùi hôi cũ lây sang. Tu Phật là Tu Tâm, mà Tâm chúng ta trước đây chứa đầy thù hận, ghen tỵ, sân si, tham lam. Nếu không dẹp bỏ đi mà học cái mới thì những thứ kia cũng tăng trưởng theo. Muốn Thiền Định cho thành công thì phải làm Sáu việc, gọi là LỤC ĐỘ, gồm: BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, NHẪN NHỤC, TINH TẤN, THIỀN ĐỊNH, TRÍ HUỆ. Tức là trước hết phải Thí, Xả những phàm tánh, những thói quen ôm, giữ, chất chứa, đố kỵ, ghen ghét, tham, sân, si. Giữ Giới là để kềm cái Tâm, cái Thân, không cho buông lung. Giống như người không thể nhìn rõ cảnh vật khi đang chạy. Thì Giới là đứng lại, và Thiền Định, Quán Sát là nhìn kỹ chung quanh mới thấy rõ cảnh vật. Vì vậy phải có Giới thì Thiền Định mới sinh ra Trí Huệ gọi là GIỚI-ĐỊNH-HUỆ. Chưa hết. Nếu chỉ làm bao nhiêu việc đó mà thiếu Giáo Pháp để hướng dẫn thì sẽ về đâu? Đâu là đích đến? Do đó mà cần đọc thêm Kinh, vì Kinh là La Bàn, là những lời dạy của Chư Vị Giác Ngộ đi trước. Nhưng tốt nhất là có thầy hướng dẫn, để kịp thời nhắc nhở chúng ta trên mỗi bước hành tri. Dù vậy, không nên tuyệt đối tin, nghe Thầy mà phải có suy xét của riêng mình. Kinh dạy VĂN-TƯ-TU. Tức là khi nghe giảng hay đọc Kinh thì cần phải Tư Duy để tìm ra ý nghĩa thật sự rồi mới thực hành.

Từ lúc phong trào Thiền rầm rộ nở ra, thì Chùa Chiền đã được gọi là Cửa Thiền, và đến nay thì Thiền đã phổ cập khắp nơi. Chùa nào cũng dạy Thiền. Giới Tu Sĩ thì Thiền đã trở thành công phu bắt buộc. Ngày nào cũng phải Ngồi Thiền. Bản thân tôi thì những gì tôi hiểu được, viết được những bài về Đạo Phật cũng nhờ Thiền Quán. Có người muốn biết chi tiết về cách Thiền của tôi, nên tôi thấy đây cũng là cơ duyên để nhân tiện tôi xin kể lại con đường tu Phật của tôi, vì nó liên quan với nhau, không thể tách rời.

Trong Kinh Viên Giác, và nhiều Kinh khác thường có câu: “Này Thiện Nam! Nếu có người nghe kinh này mà tin tưởng không nghi ngờ thì biết người đó đã trồng phước huệ không những ở một đời Phật, mà người này đã trồng căn lành từ nhiều đời Phật như vô số cát sông Hằng; cho nên nghe đến Kinh này mới hay tin thọ”. Có nghĩa là người nghe nói về Phật, về Đạo Phật hay Kinh Phật mà chịu Nghe, chịu Tin là người đó đã có Căn Cơ tu hành từ nhiều đời, nhiều kiếp. Nhưng riêng tôi ngược lại: Tôi phát tâm đọc Kinh, tìm hiểu Đạo Phật vì không tin, muốn đọc cho kỹ để chống lại Thầy tôi vì cho rằng ông mê tín. Không ngờ sau này nghiên cứu thêm về những lời của chư vị Giác Ngộ tôi mới biết mình vô tình đi vào con đường mà các vị đã nói: “Nghi lớn, ngộ lớn. Không nghi, không ngộ”, vì khi hết nghi, phá được nghi rồi thì đương nhiên cái hiểu của mình càng rõ ràng hơn. Niềm tin được củng cố vững chắc hơn. Thậm chí các vị Giác Ngộ còn cho rằng những người chỉ cần Nghe là đã Tin là hàng Thinh Văn, không có Trí Huệ, hay Trí Huệ cạn cợt, vì Trí Huệ phải là sự hiểu biết của mỗi người qua quá trình Quán, Soi, tìm hiểu, để có cái hiểu riêng do bản thân khám phá, không phải là hiểu bằng cách chấp nhận sự lý lẽ do người khác truyền lại.

Cũng xin nói sơ qua về lý do vào Đạo Phật và trình tự đi vào Thiền Quán của tôi để thấy rằng Cơ Duyên sắp xếp để tôi bị thu nhiếp vào Đạo Phật là có thật.

Những năm trước 1975, do cuộc sống ổn định, làm việc với mức lương cao nên tôi không hề có thắc mắc gì với những gì diễn ra chung quanh. Tôi hoàn toàn không biết gì về Đạo Phật, và cũng không quan tâm. Nhưng theo lời Thầy tôi kể, lần đầu tiên vợ chồng tôi đến nhà là ông biết rằng tôi là người mà ông có nhiệm vụ đi tìm. Cũng phải nói thêm là Thầy tôi là một Cư Sĩ nhưng có thần thông rất cao. Ông thấy trước nhiều việc rất chính xác. Từ năm 1968, ông đã biết rằng ông có hẹn với một nhóm người từ xa xưa, sẽ gặp nhau ở Miền Nam nên đã làm bài thơ có hai câu kết:

“Miền Nam hội tụ tình sông núi

Hẹn cũ người ơi, nguyện nhớ nhiều”

Năm 1975, sau một lần định dắt gia đình đi nhưng bất thành, ông bàn với vợ là sẽ mang cả gia đình vô Saigon sống, để ông gặp những người đã hẹn. Nhưng bà không bằng lòng, vì gia đình rất đông con, sống ở Huế quen rồi, trong Saigon không quen ai, làm sao dám dắt díu cả gia đình vô? Làm gì để sống?

Thuyết phục vợ không được, ông quyết định đi một mình. Năm 1976, ông để lại vợ con ở Huế, vào Saigon, thuê nhà ở để chờ gặp những người có hẹn với ông. Năm 1978 khi vợ chồng tôi vì tò mò nên đã là người đầu tiên đến gặp ông, thì vợ con ông cũng đã dọn vô Saigon và đã mua căn nhà ở đường Lê Văn Sỹ để gia đình cư ngụ cho tới nay.

Học riêng với Thầy được chừng 1 năm, thì nhiều người nữa lục tục đến, ngày càng đông, nên Thầy tôi mở hẳn lớp để giảng dạy mỗi buổi sáng Chủ Nhật tại nhà của một đệ tử trong một con hẻm gần Lăng Cha Cả. Có điều cũng lạ là thời điểm đó có lệnh không được tụ họp quá 5 người. Vậy mà nhóm chúng tôi đều đặn mỗi sáng Chủ Nhật có khoảng hơn 50 người tụ họp để nghe Thầy giảng từ 8 giờ sáng đến hơn 11 giờ trưa trong gần 2 năm mà không bị ai phát hiện hay làm khó dễ, dù Đạo Tràng ở cuối con hẻm, phải qua ngang hai dãy nhà hai bên rồi mới tới.

Những người đến học Đạo với Thầy tôi có đủ mọi thành phần trong xã hội: Bác Sĩ, Kỹ Sư, Luật Sư, Kiến Trúc Sư, Dược Sĩ, Giáo Sư, Thương gia, Cựu công chức cao cấp, Tiếp Viên Hàng Không, Y Tá... vì thời điểm đó ai cũng thất nghiệp, hoặc đi làm chiếu lệ. Người này đến nghe thấy cách Thầy giảng Đạo Phật rất lạ nên rủ bạn bè, kéo vợ cùng tham gia. Đa phần gia đình họ đều theo Đạo Phật, nên những danh từ của Đạo với họ đều có vẻ quen thuộc, không thắc mắc. Riêng tôi là người khác đạo, lần đầu tiên được nghe nói về Đạo Phật nên cái gì cũng lạ lẫm, cũng tò mò. nhưng vì những lời thầy tôi giải thích hoàn toàn không thần quyền, không mê tín nên tôi chấp nhận được.

Buổi đầu chỉ là nghe những bài giảng nho nhỏ và tập cho chúng tôi Phóng Sinh để giải Nghiệp. Hàng tuần chúng tôi thường hùn tiền để mua chim, cá, lươn, ốc để phóng sinh, rồi nghe thầy giảng một cách đều đặn. Nhưng lúc đó tôi nghe như vịt nghe sấm và đến giờ này chẳng còn nhớ được gì. Chỉ biết là nghe giảng được một thời gian thì có nhiều người trong Đạo Tràng đã mở được Mật Pháp. Lúc Thầy đang giảng thì có người ngồi tại chỗ đầu gật gật, tay bắt ấn. Có người đứng cả dậy để bước tới bước lui nhẹ nhàng, theo điệu bộ nào đó, hai tay bắt ấn trông rất lạ mà bản thân họ cũng không tự hiểu tại sao? Riêng tôi không bị những hiện tượng đó, chỉ ngồi quan sát anh em.

Dù vẫn đi nghe giảng đều đặn nhưng tôi vẫn chưa tin hẳn nên lúc Thầy tặng cho tôi hai quyển Kinh VIÊN GIÁC và DUY MA CẬT thì tôi nhất quyết sẽ đọc thật kỹ để nói với ông là ông đã mê tín như thế nào? Không ngờ sau đó tôi bị thu nhiếp vì những giải thích hợp lý trong đó để rồi say mê đọc và dấn thân vào Đạo Phật một cách hăng say hơn tất cả những anh em còn lại trong Đạo Tràng.

Không biết Kinh hấp dẫn tôi như thế nào mà tôi đã đọc một cách say mê, đọc ngày, đọc đêm. Ngoài giờ chợ búa, cơm nước là tranh thủ mọi lúc để đọc. Đêm đêm tôi đọc đến khuya. Ngủ dậy, rửa mặt xong là tiếp tục đọc, không còn nghĩ gì đến mọi việc. Có một hiện tượng lạ là hai tháng đầu tiên, cứ mở Kinh ra là tôi buồn ngủ, và ngủ mê mệt. Ngủ no nê cả đêm, sáng thức dậy, rửa mặt xong, mở Kinh ra đọc, thì lại ngủ tiếp. Tôi có hỏi thầy tôi, thì ông bảo: “đó là cái thức nó bị nhiếp. Cứ ngủ. Hết ngủ rồi sẽ tỉnh”. Quả thật, sau hai tháng là tôi tỉnh như sáo, cứ 3 giờ sáng là thức đọc Kinh. Không còn bị buồn ngủ nữa. Tôi vừa đọc, vừa tìm hiểu những gì được viết, phân tích lý lẽ, tìm hiểu các danh từ. Liên tục hỏi thầy những thắc mắc mới. Nhưng cứ mỗi lần hỏi xong, được giải thích cặn kẽ, đứng dậy về lại quên, lại tiếp tục thắc mắc, lại hỏi... Cho đến khi tôi hiểu được, chấp nhận được mới thôi.

Mất một thời gian khá lâu, cho đến khi tôi hết thắc mắc thì bắt đầu tập tành thực hiện theo lời thầy dạy. Biết Bố Thí, biết Xả bớt những phàm tánh. Biết kiềm chế sân, si. Khi tôi chấp nhận Đạo Phật thì Thầy tôi mới dạy Ngồi Thiền. Giai đoạn đầu chỉ là khoanh tay chân, mắt khép hờ, tập trung tư tưởng, đếm hơi thở để kiểm soát xem mình đã tập trung được chưa? Những buổi đầu thân thì Ngồi, nhưng tâm thì nhảy nhót khắp nơi. Nghĩ, nhớ đủ thứ chuyện. Nhiều chuyện bình thường không nhớ, nhưng ngồi vô, Thân ngưng hoạt động là mọi thứ cứ nhào ra. Những chuyện định làm mà quên nó cũng nhớ rõ, cứ muốn xả Thiền ra để giải quyết mới yên tâm. Khi lắng được cái Tâm, tư tưởng không còn lăng xăng nữa thì thấy mình như ở trong một khoảng không vô tận.

Sau khoảng 2 tuần, tôi báo lại với Thầy là tôi đã tập trung tư tưởng được. Không còn nghĩ, nhớ lung tung. Việc đếm hơi thở không bị quên nửa chừng. Thế là ông nói rằng tôi không cần Ngồi Thiền bằng Tướng nữa, mà dạy cho tôi Thiền Quán, bằng cách tập trung tư tưởng rồi Quán Sát và viết ra những gì mình đang muốn tìm hiểu, hay khám phá. Bởi vì Thiền có công năng là tập trung tư tưởng lại. Thời gian đó nếu ta dùng để suy nghĩ về điều gì thì rất là hữu hiệu. Còn nếu chỉ tập trung, đếm hơi thở suông, hay tệ hại nhất là hôn trầm, là một dạng ngủ ngồi, hoặc Nhập Thiền, rồi thấy mình đi đến các cõi, gặp Thần, Tiên, thậm chí gặp Bồ Tát, Phật giảng đạo thì cũng chỉ là ma cảnh, chẳng có ích lợi gì cho con đường tu học. Người Tu Thiền cần phải tỉnh táo, dùng sự hiểu biết của mình để phân tích vấn đề mình cần tìm cho rõ ngọn ngành thì mới sinh ra Trí Huệ được. Môn Thiền Quán bằng cách viết này Thầy chỉ truyền riêng cho tôi. Không phải vì ưu ái cách đặc biệt nào đó, nhưng vì thấy tôi lúc nào cũng tinh tấn, cũng hăng say tìm hiểu và thắc mắc về mọi việc. Ngày nào cũng tới nhà hỏi đạo đến 2, 3 lần dù nhà tôi cách nhà thầy đến hàng chục cây số, mà lúc đó xăng khó mua, chồng tôi phải đèo tôi bằng xe đạp, thì đủ biết tôi quyết tâm và tinh tấn cỡ nào. Chính nhờ Thiền Quán bằng cách ngồi bình thường và viết, không trong tư thế Kiết Già hay Bán Già mà tôi không bị hôn trầm hay bị cái Thức dắt vào ma cảnh, rất tỉnh táo, nên rất lợi lạc cho việc Quán Sát các Pháp.

Tôi làm y theo lời thầy dạy. Cứ mỗi lần muốn tìm hiểu về đề tài nào thì tôi lại viết ra, sau đó mang lên nhà để ông xem và sửa chữa hoặc bổ sung thêm. Buổi đầu, mỗi đề tài tôi chỉ viết được chừng vài câu là tắt tỵ. Nhiều vấn đề mình cứ tưởng là mình đã hiểu rõ, nhưng khi viết ra mới thấy chẳng đi đến đâu. Chỉ vài câu là bí. Cũng nhờ viết ra, sự việc được phơi bày trên giấy trắng, mực đen. Hiểu hay chưa? Hiểu tới đâu thì người Thầy đều thấy rõ, không thể che dấu, nên dễ hướng dẫn mình đi tiếp. Sau này tôi hiểu vì sao nhiều người Thiền Quán mà không thành công, vì cứ Quán trong lúc Ngồi Thiền, không có ghi lại, nên đôi khi không biết mình đã hiểu hết vấn đề hay chưa? Đúng hay sai? Thứ nữa là không có thầy kèm để nhắc nhở những gì mình chưa hiểu đúng. Nếu Thầy không dạy mình mở Kinh ra để kiểm chứng, thì e rằng cái mình hiểu đó chỉ mới nửa vời, mà nếu ta hài lòng với nó, không đối chiếu với Chính Kinh thì làm sao biết điều mình khám phá đó là sai hay đúng?

Thí dụ tôi muốn viết về những điều về Phật, như Phật là gì? Đức Thích Ca đã làm gì để thành Phật? Ngài đã làm gì trong lúc Ngồi Thiền mà đắc đạo? Đắc Đạo là Đắc cái gì? Điều này đâu có bài giảng nào đề cập tới? Thế là tôi phải lục tìm trong Kinh. Quyển này không thấy thì đọc quyển khác. Cứ thế mà tôi đọc đi đọc lại riết rồi nhớ những câu nào nằm ở trong Kinh nào luôn.

Tôi có rất nhiều thắc mắc. Thí dụ tại sao Phật được người đời ca tụng là “cứu khổ cứu nạn cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, tức là Ngài phải có quyền phép vô song. Tại sao tất cả mọi người lại có thể Thành Phật được? Tại sao Tu Phật mà lại là Tu Tâm? Và rồi không phải chỉ riêng chữ VÔ như Nhà Thiền lấy đó làm Công Án. Còn “Không phải Có, không phải Không, mà cũng Có, cũng Không” phải hiểu như thế nào? Rồi thì nào là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Lục Độ để Độ cho Lục Đạo. Chúng Sinh, Phật, Bồ Tát. Tại sao bảo phải “Tu, Chứng”, rồi lại bảo là “Vô Tu, Vô Chứng”? Tại sao phải Đắc, để rồi phải “Đắc cái Vô Sở Đắc”? Tánh là gỉ? Muốn Thấy Tánh phải làm gì? Thấy Tánh để được gì? Mỗi từ hay nhóm từ đều có ý nghĩa riêng. Có hiểu mới thực hành được. Rồi về những công việc phải hành trì. Vì sao phải H ành pháp đó? Phải Hành như thế nào? Tôi thấy mình cần phải hiểu cho rõ, không hiểu một cách chung chung, nên tôi dành rất nhiều thời gian để tự khai thông cho mình. Cũng may là lúc đó không có đi làm việc, hoàn toàn tự do. Thầy tôi cũng rất hài lòng thấy tôi là nữ nhân, còn trẻ, có gia đình, ngoại đạo mà lại chịu khó học hỏi, nên ông gọi tôi là “Cái nguyện đặc biệt trong cái nguyện chung” của ông.

Tôi may mắn có được 2 năm thầy kèm riêng, sau đó thêm 2 năm kèm chung với các bạn, và đọc rất nhiều Bộ Kinh. Tôi không chỉ đọc hai quyển Viên Giác và Duy Ma Cật mà còn đọc thêm Đại Bát Niết Bàn, Hoa Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Thủ Lăng Nghiêm và một số Kinh khác. Bộ nào bộ nấy dày cộp mà không hề thấy ngán, Trái lại, càng đọc càng thấy thích thú, vì như khám phá ra một thế giới mới lạ, thấy nói về những điều cần làm. Nhờ đó tôi không hề bị Thần Quyền mê tín, xem Phật, Bồ Tát như những vị Thần Linh để phù hộ cho mọi người như nhiều người do không đọc và hiểu hết ý nghĩa của Kinh, nên đã hiểu sai, rồi cứ nhang khói cầu xin. Lúc đầu tôi còn ngờ ngợ, không biết đúng hay không? Nhưng kiểm tra tới, lui nhiều Kinh thì biết chắc chắn là mình không có bị nhầm.

Không giống như những người Thầy khác, bảo đệ tử phải tuyệt đối tin. Thầy tôi lúc nào cũng dặn là không nên tin ông, mà phải đọc Kinh để tìm “tương kiến tương đồng”. Ông thường bảo: “Tôi sẵn sàng nằm xuống làm cây cầu để anh em bước qua tôi mà đi về Chân Lý. Không có gì làm cho tôi vui bằng anh em đến được với Chân Lý”. Thầy tôi cũng thường chiếu những câu Kinh làm nền tảng cho người muốn tu học: “Trực Tâm là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát Thành Phật, chúng sinh không dua vạy sinh sang nước đó”. Để chúng tôi biết rằng người muốn tu cho thành công thì phải có Trực Tâm. Không thể dùng cái Tâm không ngay ngắn để vào Đạo được.

Cũng nhờ siêng đọc nhiều Chính Kinh nên sự hiểu biết của tôi cũng được mở mang hơn, và cũng nhờ thường xuyên kiểm chứng nên biết rằng mình không đi lệch hướng của Đạo. Cũng phải nhìn nhận là có nhiều Kinh đọc rất khó hiểu, như quyển Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất tôi đọc cả chục năm mới hiểu ra. Khi hiểu rồi thì lại thấy rất dễ.

Môn Thiền Quán, theo tôi, chỉ có thể nói những nét chính, không thể tả chi tiết, là vì chi tiết nằm ở người thực hành. Khi bắt tay thực hành sẽ thấy vấn đề rõ hơn. Một điều chắc chắn là một người chưa biết gì về Đạo không thể Thiền Quán thành công, vì Thiền Quán chỉ giúp người Quán thấy rõ thêm về đề tài nào đó, nhưng không thể giúp cho người không biết gì “Đột nhiên hoát ngộ” được. Nếu có Ngộ thì chỉ Ngộ được Pháp mình đang Quán thôi, không thể ngộ tất cả Pháp của Đạo được. Nếu muốn Thiền để Tịnh tâm thì không cần phải theo Đạo Phật. Bất cứ ai cũng hành được. Việc dừng lắng tạp niệm, đếm hơi thở sẽ làm cho người hành Thiền có được cái tâm an tịnh và thêm sáng suốt mà thôi. Thiền cũng như tập trung củi lửa và Tư Duy lúc Thiền là món ăn mà ta nấu trong lúc tập trung. Nếu ta chỉ đốt vài thanh củi rồi bỏ đó thì lửa sẽ tàn, món ăn không chín. Suy nghĩ đề tài này rồi nhảy sang đề tài khác thì chẳng đi tới đâu. Nấu món gì thì sẽ ra món đó. Tư duy đề tài gì thì sẽ ra kết quả của đề tài đó. Sâu hay cạn, ít hay nhiều là do ta có chuyên tâm đào bới thêm về đề tài đó hay không. Nếu Không nấu gì thì củi, lửa sẽ cháy khơi khơi. Không có đề tài để tư duy thì chỉ được cái tĩnh lặng, thanh tịnh mà thôi, xả Thiền ra thì đâu lại vào đấy, Trí Huệ không thể mở mang được.

Nhiều người không biết mục đích của việc tu Phật, nên chỉ chọn môn Thiền để hành trì, theo tôi, đó là một sai lầm lớn. Bởi vì Tu Phật tức là từ Bờ bên này muốn đi qua bờ bên kia thì phải có thuyền hay ghe, tàu với đầy đủ mọi bộ phận: Thân tàu, máy, bánh lái (LỤC ĐỘ). Nhưng người thông minh lại cho rằng thân tàu, bánh lái là vô dụng. Chỉ có cái máy tàu (THIỀN ĐỊNH) là quan trọng, vì do có sức của cái máy mới đẩy được tàu đi, nên chỉ chọn cái máy, bỏ thân tàu, bánh lái, vì cho rằng không cần thiết. Thế là anh ôm cái máy rồi lao xuống sông, kết quả thì ai cũng biết rồi! Đó cũng là lý do vì sao Thiền Tông không đào tạo được vị Giác Ngộ nào, chỉ có một số Thiền Sư, nổi tiếng vì đánh người, nhại lại câu hỏi, đưa lên đưa xuống cây phất trần, hoặc im lặng khi được tham vấn. Do không có lý thuyết để truyền lại, nên trách sau đời con cháu không thể học theo được.

Theo tôi, việc tu cũng không khác việc học của đời. Phải đi từ thấp lên cao. Phải hành đầy đủ các môn. Phải kiên nhẫn, phải yêu thích, đam mê, có quyết tâm. Biết rõ mục đích của Đạo. Muốn đạt kết quả của Đạo, thì mới dồn tâm ý vô mà thực hành được, vì có yêu thích mới tinh tấn hành trì, thì sự hiểu biết càng mở rộng thêm. Biết cái gì trói? Biết lý do mình bị trói. Biết mình bị trói bao nhiêu gút? Biết Gút ở đâu để mở thì mới Giải Thoát được. Muốn Ngồi Thiền thành công thì trước đó phải giữ Giới để hạn chế buông lung của Thân và Tâm thì khi Thiền mới có Sức Định. Khi Ngồi Thiền thì càng không được vọng động. Không được khởi Tâm cao, thấp, hơn, thua. Không nên mong cầu biết trước biết sau hay Chứng Đắc. Khi cái tâm thanh tịnh thì Trí Huệ mới mở mang được.

(còn tiếp)

TÂM NGUYỆN

Tháng 8/2019


Phụ bản I

HAI ĐẠI THI HÀO CỦA HAI DÂN TỘC

HAI ĐẠI THI HÀO CỦA NHÂN LOẠI

Thúy Toàn

Cách đây một khoảng thời gian khá lâu, anh Nguyễn Xuân Tình, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Nga tỉnh Hà Tĩnh đã đưa ra dự án Festival Nguyễn Du - Pushkin. Mãi đến nay từ dự án đó mới trở thành sự thật: Chúng ta có cơ hội tham gia Hội thảo quốc tế “Nguyễn Du và Pushkin - tương đồng và khác biệt”. Xin cám ơn Ban tổ chức cho chúng tôi có cơ hội được tham gia sự kiện.

Nhân dịp này tôi cũng xin phép được tưởng nhớ với lòng thành kính và biết ơn tới nhà Việt Nam học người Nga, cố giáo sư viện sĩ Nikolai Ivanovich Nikulin (1931-2006), một trong những người bạn chí tình thân thiết của nhân dân ta và của nhiều thế hệ văn thơ nghệ sĩ Việt Nam, một trong những người Nga dành cả cuộc đời cho nghiên cứu văn hóa - văn học Việt Nam, và có lẽ cũng là một người nước ngoài đầu tiên dành nhiều tâm huyết đi sâu nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của đại văn hào dân tộc Nguyễn Du (1766-1820), hơn thế nữa, cũng lại là người đầu tiên đã đề cập đến vấn đề so sánh “tương đồng và khác biệt” giữa hai đại thi hào Nga Alexandr Sergeyevich Pushkin (1799-1837) và đại thi hào Việt Nam Nguyễn Du (1766-1820) từng sống gần như cùng một thời đại, chỉ khác ở hai đất nước cách xa nhau với hai bối cảnh lịch sử cùng ở giai đoạn phong kiến khốc liệt, nhưng trình độ truyền thống văn hóa đông tây khác nhau, tuy nhiên, cuối cùng lại bước vào một giai đoạn đi chung một con đường hòa nhập nhân loại.

Trong bài nghiên cứu “Tác phẩm của Pushkin ở Việt Nam” công bố trong công trình “Pushkin ở phương Đông” (tiếng Nga, NXB Khoa học “Nauka”, M.1979), đã được dịch và công bố trong sách tiếng Việt( 1 ) , tác giả Gs.Viện sĩ N. Nikulin đã có nhận xét khái quát: “Những năm 50-70 thế kỷ XX, khi nhận thức từ quan điểm Mác - Lênin về quá trình phát triển của văn học Việt Nam và ngôn ngữ học Việt Nam được tăng cường vai trò của Pushkin trong sự hình thành văn học Nga và ngôn ngữ học Nga đã lôi cuốn sự chú ý đặc biệt của các nhà khoa học Việt Nam…” Bắt tay vào nghiên cứu và biên soạn một cách có hệ thống những vấn đề lịch sử ruột thịt của mình, các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành so sánh, mặc dù điều này thiết nghĩ, chỉ là tương đối, giữa Pushkin và đại thi hào Việt Nam là Nguyễn Du (1766-1820)”. Tác giả N. Nikulin đã đưa ra những dẫn chứng trích từ các công trình khoa học của các tác giả Việt Nam, từ Đào Duy Anh (Khái luận về Truyện Kiều, H.1958); Nguyễn Văn Hoàn (Controverses surla Kieu, Etudes Vietnames, số 4/1965, tr.75); Lê Đình Kỵ (Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, H.1970, tr.473); Hoàng Xuân Nhị (Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, H.1959)…

Nhắc đến ý kiến của các dịch giả văn thơ Pushkin sang tiếng Việt, N. Nikulin đã đưa ra những nhận xét của họ (như nhà thơ dịch giả Hoàng Trung Thông hay dịch giả - giáo sư Cao Xuân Hạo) về sự tương đồng và khác biệt giữa Pushkin và các tác giả Việt Nam, trong đó có Nguyễn Du. Nhận xét về dịch thơ trữ tình Pushkin sang tiếng Việt ông còn viết thêm “…rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà bản dịch bài thơ Chiếc xe đời do Thúy Toàn dịch lại là một trong những bài dịch đầu tiên được in. Bài thơ ngụ ý này hóa ra là rất gần gũi với thơ cổ Việt Nam, với một nét đặc trung cho thơ ngụ ý, nghĩa thứ hai (mới quan trọng - ND) và là ngụ ý ngầm ẩn”(2) .

CHIẾC XE ĐỜI

A.Pushkin

Trên xe dù có nặng

Vó ngựa vẫn băng băng.

Thời gian tóc hoa râm

Tay cương ngồi chầm chệ.

Sáng ra lên xe ngồi,

Đời xông pha bươm bả.

Khinh nhác lười, nhàn nhã,

Hò vang: mau đi thôi!

Đến trưa chí nhụt rồi

Thấy rãnh hào lòng nản,

Nhìn núi đồi đâm hoảng:

“Đồ ngu, chầm chậm thôi!”

Chiều đã dần dần quen,

Tà tà đến quán trọ,

Mặc cho bánh xe lăn,

Thời gian xua vó ngựa.

1822

Khi ấy, sau hai năm chuyên học tiếng Nga, bước vào những năm đầu trường Đại học Sư phạm Moskva, chúng tôi bắt đầu lần lượt được học qua lịch sử văn học Nga từ cổ điển đến hiện đại. Phải đến năm thứ ba tôi mới được tiếp xúc sâu với tác phẩm của Pushkin. Kỳ lạ là tôi thấy tác phẩm của Pushkin không đến nỗi khó khăn quá, có thể hiểu được chỉ cần đọc cho kỹ. Chẳng hạn bài thơ trữ tình Chiếc xe đời có vẻ triết lý đấy, nhưng tôi thấy thích thú ngay. Có gì đó gợi hiện lên cho thấy ngay hình ảnh rõ ràng, ngờ ngợ và còn nhắn gọi cho tôi câu hát ru đã nhập tâm từ thuở thơ ấu: “Ngày giờ thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ đợi ai” và rồi gợi cả cho tôi nhớ câu thơ cổ mà thầy giáo đã giảng cho nghe trong một giờ học trong đó hình ảnh thời gian lại như vó ngựa phóng qua bên ngoài cửa sổ (vó câu qua cửa)… Thế là tôi, điếc không sợ súng, bắt tay vào dịch thơ Pushkin, và rồi sau này về công tác làm anh biên tập sách ở Nhà xuất bản Văn học, nhớ tới bài viết của nhà Việt Nam học người Nga có nhắc đến bản dịch của mình, nhân tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa in xong chở về Nhà xuất bản, được dịp tôi liền giở ra đọc và liền tìm thấy ngay ở phần đầu sách có bài thơ cũng cho tôi một ấn tượng gợi nhớ đến hình ảnh của thời gian hiện lên.

Ấy là bài Tự thán (3)

Tấm thân sáu thước tuổi ba mươi

Đeo đẳng thông minh để tội trời

Chữ nghĩa vốn không ghen với mệnh

Đất trời sao lại ghét lầm ai?

Dở dang thư kiếm cơn cùng quẫn

Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi

Những ước cạo đầu vào núi ẩn

Đàn thông nằm lắng tiếng lưng trời.

Từ đấy nghe theo lời khuyên của nhà Việt Nam học người Nga, theo đuổi công việc dịch thuật thơ văn Nga, trước hết là sáng tác của thi hào Nga A.S Pushkin, bất giác tôi trở thành “người nghiên cứu” không chỉ văn học Nga, thơ văn Pushkin mà đồng thời “người nghiên cứu” cả văn học nước nhà, nhất là những gì liên quan đến thi hào Việt Nam Nguyễn Du. Và cách đây cũng đã không ít thời gian, tự nhiên tôi cứ trở đi trở lại suy nghĩ về hai câu thơ của thi hào Việt Nam Nguyễn Du mà nhiều người cũng đã bàn tới: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Tôi cứ ngờ ngợ những lời bình của các bậc tiền nhân về hai câu thơ này, thường giải thích chữ “khấp” là “khóc” do đó mà cho đây là lời “than vãn” gợi ở người này, người kia “những cảm xúc và suy nghĩ bồi hồi, xót xa…”

Tôi trở lại bài thơ Đài kỷ niệm của thi hào Nga A.S. Pushkin viết ra năm 1836:

Exegi Monumentum (4) 

Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm

Không bởi sức tay người. Đường tới viếng

Cỏ không trùm dấu bước thế nhân,

Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngẩng cao hơn

Cả trụ thờ Alexandre Đệ nhất (5)

Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết

Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan

Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân

Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi

Trên khắp nẻo đất nước Nga vĩ đại

Tiếng thơm rồi sẽ đồn mãi về ta:

Từ cháu con kiêu hãnh Xlava (6)

Đến dân Phần, Tungu ngày nay còn man rợ,

Cả Canmức - bạn thân của đồng cỏ(6)

Bằng ngôn ngữ riêng họ sẽ gọi tên ta.

Và nhân thế sẽ còn yêu ta mãi

Vì đàn thơ ta đã thức tình thân ái,

Vì trong thuở bạo tàn ta đã ca ngợi tự do

Và gợi từ tâm đối với kẻ sa cơ.

Nàng thơ hỡi, hãy nghe lời Thượng đế:

Vinh quang không màng, nhọc nhằn sá kể,

Chẳng bận lòng với kẻ thích, người chê,

Chẳng hoài công cãi với đứa ngu si.

1836

Từ việc dám sánh mình (đang chỉ là một chàng thi sĩ trẻ ngấp nghé ở tuổi tứ tuần, sống ở cái nước Nga nông nô chuyên chế) lại dám sánh ngang với bậc vĩ nhân cổ điển La Mã lừng danh ghi tên trong sử sách từ những thế kỷ 7-8 trước cả công nguyên (Horaxơ - Horatius Flaccus), lại ngẩng cao đầu hơn cả trụ thờ Sa hoàng Nga, hoàng đế Alexandre Đệ nhất (1777-1825) người đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh vệ quốc 1812 và trụ thờ vị sa hoàng anh hùng này vừa được triều đình sa hoàng Nikolai Đệ nhất (1796-1855) cho xây dựng trên quảng trường lớn trước cung điện Mùa Đông giữa kinh đô Peterburg cổ kính vào tháng 11 năm 1834, trước khi bài thơ Đài kỷ niệm của Pushkin tự viết về mình có 2 năm (1836).

Mới chỉ qua hai chi tiết khổ đầu bài thơ đã có thể thấy nhà thơ Nga chưa đầy bốn chục tuổi A.Pushkin đâu phải con người tầm thường, ông không hề kinh sợ cả Sa Hoàng Nga Nikolai I (1796-1855) hơn nhà thơ 3 tuổi, ngay sau khi lên chấp chính vào năm 1825, đã hạ cố “ân xá” cho nhà thơ lúc đó đang bị quản thúc tại trang ấp dòng họ Mikhailovshoie, còn triệu nhà thơ vào triều và ra câu hỏi: “Nếu khanh có mặt ở kinh đô khi đó (tháng Chạp 1825 xẩy ra cuộc khởi nghĩa không thành của phong trào yêu nước đòi xóa bỏ chế độ nông nô mà về sau có tên là những người tháng Chạp) khanh có tham gia không?”; đã nhận được câu trả lời khẳng khái của Pushkin: “Tất nhiên! Vì bạn bè của thần đều có mặt!”. Ở bài thơ Đài kỷ niệm Pushkin còn tỏ ra là người tự biết mình, tự tin ở sự nghiệp của mình, tài năng của mình, sự đóng góp của đời mình cho đất nước, nhân dân Nga, cho con người nói chung:

“Và nhân thế sẽ còn yêu ta mãi,

Vì đàn thơ thức tỉnh thân ái,

Vì trong thuở bạo tàn ta đã ca ngợi tự do

Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ…

Tài năng của Pushkin đã được nhân dân thừa nhận ngay từ thuở nhà thơ còn ngồi trên ghế nhà trường. Những bài thơ trữ tình đầy dũng khí, ca ngợi tự do, đòi giải phóng nông nô, đòi hạnh phúc cho con người đã lan truyền rộng rãi động viên cho tầng lớp trí thức trẻ hăng hái trong các tổ chức yêu nước của phong trào tháng Chạp. Trong một ngày hội trường, có mặt đông đủ văn võ bá quan, đông đủ các bậc trưởng lão… nghe nhà thơ trẻ Pushkin đọc một trong các sáng tác đầu tay của mình, bài “Những kỷ niệm về Hoàng thôn” nhà thơ lão thành, chủ soái dòng văn học cổ điển Nga Deriavin G.R. (1745-1816) đã bật dậy đòi ôm hôn nhà thơ trẻ, xúc động sau khi đọc thơ đã biến mất, cụ già đã thốt lên: “Nó sẽ mọc cao che trùm tất cả chúng ta”. Năm 1822, sau khi Pushkin sáng tác trường ca “Ruslan và Ludmila”, gửi tặng Giukovshi V.A (1783-1852), nhà thơ lão thành, một trong những người tạo dựng chủ nghĩa lãng mạn văn học Nga, Pushkin đã nhận được chân dung của Giukovshi đáp tặng với lời đề kèm theo: “Người thầy chiến bại tặng trò chiến thắng”. Mỗi sáng tác của Pushkin ra đời hầu như đều trở thành sự kiện của đời sống văn học đương thời Nga, nhiều tác phẩm trong số đó được dư luận công chúng cũng như các nhà phê bình đánh giá cao: Tiểu thuyết bằng thơ Evgheni Onheghin được tôn là hộ “Bách khoa toàn thư của xã hội Nga” , tiểu thuyết văn xuôi Người con gái viên đại úy, vở kịch - Boris Gođumov dựng lên những trang lịch sử ghi đậm tiếng nói của nhân dân Nga v.v…

Và khi nhà thơ Puskin qua đời đột ngột sau cuộc đấu súng oan nghiệt báo chí Nga đã thốt lên là “Mặt trời thi ca Nga đã tắt”. Tuy nhiên sau đó vầng mặt trời vẫn chói lọi chiếu sáng đường cho đất nước Nga nhân dân Nga vượt qua mọi trở ngại khó khăn cuối cùng đi đến một đất nước Nga của nhân dân, xây dựng một xã hội mới, trở thành cường quốc sánh với các cường quốc bốn bể năm châu thì tên tuổi A.Pushkin không chỉ còn là tên tuổi thì hào của dân tộc Nga và còn là thi hào của toàn nhân loại. Ngày nay nói đến nước Nga là người ta nhớ đến tên tuổi và sự nghiệp của Pushkin và ngược lại nói đến Pushkin người ta nhớ đến nước Nga.

Trở lại hai câu thơ của thi hào Việt Nam Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” ta cũng có thể nghĩ về trường hợp bài thơ di chúc Đài kỷ niệm của Pushkin. Trong di sản của Nguyễn Du để lại người ta thường nhắc đến hai câu thơ trên được để ở cuối bài thơ Độc Tiểu Thanh ký. Với hoàn cảnh phong kiến bây giờ nhiều tác phẩm của Nguyễn Du không còn lại nguyên bản, mà các thế hệ đương thời của tác giả hoặc hậu sinh truyền miệng rồi mỗi người tập họp lại, xếp sắp theo ý riêng, rồi bàn luận theo chủ quan mỗi người. Riêng về bài Độc Tiểu Thanh ký có khi được đưa vào cuối Thanh Hiên thi tập, có khi xếp vào Bắc hành thi tập. Nhận định về bài thơ có người cho rằng “hai câu thơ cuối cùng… là hai câu thất niêm so với toàn bài. 6 câu đầu ở thể bằng, 2 câu cuối ở thể trắc. Lại có thuyết nói đó là hai câu “khẩu chiếm” (độc thoại) của Nguyễn Du lúc sắp mất (ông Nghè Nguyễn Mai cháu mười đời của Nguyễn Du, các ông Bùi Kỷ, Lê Thước, Phan Sĩ Bằng)”(7) .

Nhà thơ Xuân Diệu viết trong “Thay lời giới thiệu - Thơ chữ Hán Nguyễn Du”, NXB Văn học, H.1988, có phân trần: “Không phải là một nhà nghiên cứu tôi lần theo những tài liệu đã có, tìm lưa thưa dấu vết một thi hào tôi yêu mến. Tự mình không biết đọc chữ Hán, đọc phiên âm, hiểu qua phiên dịch, thế tất còn nhiều lõm bõm và khó tránh sai lầm. Đọc lại hai lần, ba lần, bốn năm lần, vẫn chưa nhận thấy mình nắm được một cái gì thật chắc lắm”. Nhớ đến lời của nhà phê bình Nga vĩ đại Behinski V.G (1811-1846) sau này năm Pushkin qua đời; “Pushkin thuộc những hiện tượng sống động nhưng không dừng lại ở thời điểm mà cái chết bắt gặp ông ở đó, mà tiếp tục phát triển trong nhận thức của xã hội. Mỗi thời đại sẽ nói lên phán xét của mình”. Phải chăng về thi hào dân tộc Việt Nam Nguyễn Du của chúng ta cũng có thể mượn lời của nhà phê bình vĩ đại Nga Belinski nhận xét về Đại thi hào Nga A.S.Pushkin để kiến giải những suy nghĩ của các thế hệ người Việt về thi hào dân tộc Nguyễn Du của mình.

Ngay từ năm 1941, còn là một thanh niên mất nước, mất văn học dân tộc thi sĩ Xuân Diệu khi đọc hai câu thơ “Ba trăm năm nữa ta không biết - Thiên hạ ai người khóc Tố Như”, thi sĩ Xuân Diệu trong tâm trí “những bồi hồi, xa xót”. Tuy nhiên ngay khi đó cũng đã có gì ngờ ngợ. Ông đã hiểu chữ khấp đây không hẳn là khóc.

“…Khóc đây là thương cảm cùng nhau, thấu hiểu nhau, quý hóa nhau. Khóc đây chưa hẳn là thảm sầu, mà là một nụ cười cũng có. Khóc đây chưa hẳn là khóc ai, mà còn là khóc với… Lời kêu gọi của một trang tài tình, nghe êm ái ngậm ngùi như một tiếng chim cô lẻ dội giữa trời thu khuya. Đó là tiếng giã đời, nhưng cũng là tiếng hợp bạn, tiếng tuyệt vọng, nhưng cũng là tiếng hy vọng. Câu tự hỏi, nhưng cũng là tự trả lời…” Cộng với thêm giả thuyết của ông Nghè Nguyễn Mai cháu mười đời Nguyễn Du, các bậc túc nho Bùi Kỷ, Lê Thước, Phan Sĩ Bằng cho câu thơ là “Khẩu chiếm” (độc thoại) thốt lên trước lúc nhắm mắt xuôi tay của thi hào, ta có thể nói cả bài thơ nó mang một ý nghĩa trăng trối, di chúc cho bạn thế không khác gì bài thơ Đại kỷ niệm của Pushkin.

…Trong bao liệt truyện không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại đọc câu chuyện về Tiểu Thanh. Tiểu Thanh phải chăng cũng là chính Nguyễn Du. Tiểu Thanh là một nữ sĩ tài hoa, tài hoa đến mức chỉ chục bài thơ còn tình cờ sót lại mà đời sau vẫn truyền tụng. Trước khi Tiểu Thanh mất cho vẽ chân dung: Lần thứ nhất hình dáng thì giống nhưng không có thần, bị từ chối. Lần thứ hai chân dung có thần, nhưng lại không giống. Cũng không được! Lần thứ ba cả hình dáng và thần thái đều hài hòa, bấy giờ xem xong Tiểu Thanh mới thở hơi thở cuối cùng.

Phải chăng đây cũng là quan niệm nghệ thuật cần phải hài hòa nội dung và hình thức mà chính Nguyễn Du cũng từng tôn trọng và theo đuổi.

Cuộc đời sáng tác của Nguyễn Du là một mẫu mực của nghệ thuật, từ thơ sáng tác bằng chữ Hán, hay chữ Nôm, ta thấy Nguyễn Du đều chứa chan tình người, tràn đầy tính nhân đạo, được nhân dân yêu mến, trân trọng, giữ gìn và truyền bá qua hết đời này đến đời khác. Truyện Kiều là mẫu mực về câu thơ lục bát Việt Nam, kiệt tác về xã hội con người… Khi Nguyễn Du qua đời đã có những lời phúng viếng lưu truyền “Nhất đại tài hoa” (một kiếp tài hoa), “Đại gia văn tự thế tranh truyền” (Văn tự hơn đời tiếng dày vang).

Nguyễn Du qua Độc Tiểu Thanh ký cho thấy mình là con người cũng khẳng khái, dũng cảm tự tin vào sự đóng góp của mình với đời, về con người chính trực của mình sẽ sống mãi trong lòng các thế hệ nhân dân Việt Nam. Không phải 200 năm, nếu như tính từ khi Tiểu Thanh từ giã cõi đời đến khi Nguyễn Du đọc câu chuyện của nàng và cảm khái làm thơ, mà là 300 năm kia, nhưng “tam bách dư niên hạn” ở đây cũng không thể hiểu là 300 năm thường tình mà đó phải hiểu là “mãi mãi”. Quả vậy cuộc đời và sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du Việt Nam gắn với lịch sử đi cùng với hạnh phúc của nhân dân Việt Nam ta, không khác gì cuộc đời và sự nghiệp của thi hào Nga gắn với lịch sử đi tới ngày vinh quang của nhân dân Nga. Là hai thi hào của hai dân tộc, ngày nay khi Việt Nam cũng đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thi hào Nguyễn Du Việt Nam cũng trở thành thi hào của nhân loại. Năm 1965 Nguyễn Du đã được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm Truyện Kiều kiệt tác của Nguyễn Du đã được phổ biến bằng gần 30 thứ tiếng trên thế giới. Tôi xin đóng góp bài tham luận với nhan đề “Hai Đại thi hào hai dân tộc, hai đại thi hào của cả nhân loại” là vì thế.

THÚY TOÀN


(1) Bản dịch của Vũ Xuân Hương trong “Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, NXB Giáo dục, 2000, tr. 697-721 và “Dòng chẩy văn hóa Việt Nam”, NXB Văn hóa Thông tin, 2006, tr. 444-474.

(2) Xem Dòng chẩy văn hóa Việt Nam, tr.456

(3) Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, 1988, tr.12. Bản dịch thơ của Trần Thanh Mai

(4) Câu thơ dẫn trích: “Exegi Monumentum xxeperenius” (ta đã dựng lên đài kỷ niệm vững bền hơn sắt đá) của thi hào cổ điển La Mã Horaxô (Horatius Flacrus 65-8 trước CN.

(5) Alexandre (1777 – 1825) Sa hoàng Nga chiến thắng Napoleon năm 1812

(6) Tên của các bộ tộc sống trên đất Nga bấy giờ.

(7)Xem Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Tuần Văn Nhĩ dịch thơ, Nhuận Sắc - Đinh Ninh) NXB Văn nghệ, 2007, tr.180

Con chim Hán học cuối mùa

ở ngôi trường thành phố

Thích thú khi kỷ niệm tưởng chừng đã bị phủ kín dưới tầng tầng lớp lớp thời gian bỗng được phép màu khơi dậy cuồn cuộn tuôn về không thể kềm chế, lúc tôi nhìn thấy lại hai câu đối ngày nào trước cổng trường.

Cám ơn bạn bè đã giữ được trong trí tinh chất tư tưởng của vị thầy tôi kính mến. Cám ơn anh em cùng chung mái trường thuộc những thế hệ khác nhau, giờ lạc lõng quê người, cùng nhau hội lại, đã giúp tôi có dịp đào xới những gì đã vùi chôn trong ký ức.

Tôi đọc câu đối bằng trí nhớ: “Khổng Mạnh cương thường tua khắc cốt, Âu Tây khoa học yếu minh tâm” khi những cảm tưởng về nơi mình tòng học đang được tiếp nối phát biểu thật cảm động trên sân khấu! Anh ngồi gần ngời sáng ánh mắt, rung động vì thời trai trẻ hiện về. Em nào đó lẩm nhẩm cố ghi nội dung ẩn tàng trong các chữ thật bình thường trước mặt.

Hình ảnh vị giáo sư vỡ lòng tôi chữ Hán hơn ba thập niên trước hiện rõ ràng trong trí. Vị thầy một niên khóa xa xưa người học trò một đời chịu ảnh hưởng. Vị thầy khuất núi từ lâu người trò như còn mơ hồ nghe đâu đây lời giáo huấn.

Thầy tôi, giáo sư Ưng Thiều, vị giáo sư già, người thầy trễ tràng rớt rơi lại của giai đoạn Hán học cuối mùa, một thời nặng nợ trường ốc, khổ tâm với “điêu trùng”, “trường quy” năm đó lạc lõng giữa đám học trò nhìn chuyện xưa như những điều kỳ dị, ngô nghê, cổ hủ.

Ánh mắt thầy không vừa ý khi có đứa đùa kêu thầy bằng ông nội, cử-chỉ ngừng giảng của thầy biểu lộ sự thất vọng khi thấy cả lớp có độ hơn mười đứa thì hầu như đủ chục “cúi đầu bái thiên địa” khi thầy giảng điều hay ho trong Ngọc tỉnh liên phú, trong Chí Linh sơn phú hay ngâm nga xã-tắc lưỡng hồi lao thạch mã...

Có thể trong những đứa ngủ gục nhiều nhứt có tôi, có thể trong những đứa phá thầy nổi tiếng có tôi, không nhớ rõ; chỉ biết giờ nầy nhiều khi buồn tình đọc lại cổ văn bí lối, tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ... Nhưng làm sao kéo được thời gian trở về? Vị thầy cũ, con yến muộn màng của Mùa Xuân Hán học đã không còn nữa. Mùa Xuân đó cũng đã trôi qua theo dòng liên tục của thời gian miên viễn, lấp chìm trong sự tiến hóa tất nhiên của đời, của đất nước. Và chính học trò mình cũng đã quên trong bao nhiêu năm tháng chạy theo ảo ảnh phù du mà gọi bằng thực tế áo cơm.

Cách học trò năm mươi tuổi, thầy tôi da mặt nhăn nheo theo sự tàn phá của thời gian, luôn luôn súng sính trong bộ quần áo rộng thùng thình, đôi giầy da màu nâu to lớn, đôn đốc từng đứa sổ phải ngay, ngang phải thẳng, đá phải sắc. Thầy nhắc chừng đứa nầy viết trái cựa, đứa kia viết thiếu nét, nhận xét tập nào viết như gà bới, cua bò, tập nào dơ như nhai mà nhả. Thầy luôn luôn bận rộn, khuyên nhủ, canh chừng, khuyến khích, trái hẳn với những bức tranh thầy đồ dạy học với ông thầy già ngồi hút thuốc lào, cây roi mây cật to tướng cạnh bên, anh lớn dạy trò nhỏ, mạnh ai nấy ê a, học cách nào cũng được sự đóng góp của thầy có tính cách xúc tác hơn tác dụng. Nhiều lúc thầy tôi đứng cạnh một anh học trò giỏi giảng thêm về khí, về lực, về thần trong cách viết chữ Nho, chúng tôi cố vảnh tai nghe lén nhưng, độ hiểu, mức thầm, lòng thích thật vô cùng ít ỏi...

Chúng tôi ai nấy ham vui, chểnh mảng, cố tìm lý chứng biện minh cho sự lười biếng của mình, rồi ngày tháng trôi qua, 214 bộ của chữ Hán như 214 vũ khí quay quần tấn kích chúng tôi, không một anh nào thuộc hết, không một anh nào nhớ rõ bộ nào trước bộ nào sau, không anh nào có thể xác định được một cách chắn chắn chữ nào thuộc về bộ nào nếu trước đó chưa từng gặp. Người xưa học một biết mười, thơ phú, văn từ mây trôi nước chảy, chúng tôi học trăm điều chưa chắc nhớ một, lè què mấy chữ, xọ nọ qua kia, tác thành tộ, ngộ thành quá, mã thành yên, lộn tùng phèo, rối nhùi mớ bòng bong. Thầy tôi, thầy Ưng Thiều, không có trách nhiệm gì hết trong sự dốt nát đó của học trò. Lỗi chúng tôi, chút nắng quái chiều hôm Hán học không soi đủ hang tối dốt nát, u mê trễ lười. Lời giảng thiết tha như nhỏ máu từ con tim, có thể tác dụng như “mổ óc nhét vào” của thầy, hiệu quả với ai chứ không đủ sức rửa được sự u trệ của những đầu óc non nớt ham vui.

Có thể chúng tôi lúc đó còn thơ dại, những con chim chưa đủ lông cánh, chưa đứng vững trên đôi chân mình, trí tuệ nào để hiểu hết lời thầy nói. Có thể hình thù chữ Hán hiện ra ngay từ phút đầu đã là con ngáo ộp biến hóa khiến ai cũng ngán ngẩm bút lông và sợ hãi trước những nét đá, phết, ngang, sổ xa lạ. Trường hợp tôi là một điển hình. Đậu vào lớp Đệ Thất từ một lớp Nhứt của trường danh tiếng ở Sàigòn, ngôi trường mang tên người đồng thời với Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, và cũng nổi tiếng nhờ viết lách như ông: Thế Tải, Trương Minh Ký, tôi cũng là một đứa nhỏ ham chơi chưa có ý thức được sự cần thiết phải học huống chi sự quan trọng của chữ Hán! Ghi học Hán văn vì ở nhà lúc đó không biết do ai mua, lang thang mấy cuốn Minh Tâm Bảo Giám, mấy cuốn kinh, vài cuốn Tứ thư do học giả Đoàn Trung Còn dịch, có in chữ Hán kèm theo, buồn tình tôi đọc tới đọc lui đã thuộc được một số mặt chữ. Bước vào thực tế tôi mới thấy biết vài ba chữ học lóm không đầy lá mít của mình là đương đầu không biết người biết ta với con-ngáo-ộp-biến-hóa-thiên-hình vạn-trạng ba-đầu-sáu-tay mười-hai-con-mắt là chữ Hán.

Sau vài tháng còng lưng mỏi cổ, mỏi tay, tôi chán chi hồ, giả, dã. Tôi tự biện hộ rằng biết nghĩa, biết chuyện xưa tích cũ là đủ, biết mặt chữ Hán cũng vô ích thôi và bắt đầu dòm qua các bạn cùng lứa tay cặp cuốn Anglais visant hay Anglais sans peine thầm nghĩ ráng cho tới hè, rồi năm tới từ giã bút lông, chia tay thứ chữ ngoằn ngoèo xa lạ đó.

Lúc ấy bên ngoài những chiếc tàu Mỹ khổng lồ đang tuôn đổ hàng vạn đồng bào tôi từ xa xăm tới. Tôi lạ lùng với quần áo và tiếng nói của họ, nhưng tôi cũng bị choáng váng vì sự vĩ đại của con tàu nọ bên cạnh những chiếc tàu đi sông đi cận duyên như con voi đứng bên con kiến, nghĩ đến sự văn minh, kỹ thuật, tôi chợt thấy chữ Hán là một cái gì đó lỗi thời, như người tiền sử đứng trước cái máy thâu thanh. Phải học tiếng Anh, tiếng Pháp!

Ngày lại ngày, chiến cụ, súng ống, xe tăng, xe jeep được chở đến chạy rầm rầm, rung rinh thành phố, lay động căn gác nhỏ trong xóm nhỏ nghèo nàn cả gia đình tôi chui rúc, trong khi những giọng Anh ngữ rất sang, hứa hẹn những chân trời mới từ các lớp bên cạnh của mấy thầy Sang, Thọ, Khoa, Thái mỗi khi tôi có dịp đi ngang đều đánh rộn ràng tim tôi bằng một sự hấp dẫn khôn cưỡng.

Thèm được học tiếng Anh nhưng thích nghe chuyện thánh hiền, hai đối lực vằn vật trong tôi suốt mấy tháng trường, cuối cùng hình ảnh thầy Thiều đã thắng, hằng ngày tôi cùng một số ít ỏi bạn bè chăm chỉ còng lưng với môn Hán văn trong khi một phần lớn đã đổi sang Anh ngữ.

Thầy giảng dạy về sự đa nghĩa của tiếng Hán Việt tùy theo cách viết, chữ tân tùy lúc là khách, là mới, là bờ sông, chữ minh tùy lúc là sáng, là tối. Chữ Hán tùy theo bộ thủ mà thay đổi nghĩa, tiếng Việt phần lớn mượn từ tiếng Hán, nên nhờ đó cũng phong phú, đa nghĩa theo. Tôi làm quen với kho tàng ngôn ngữ Việt từ đó.

Thầy tôi giọng trọ trẹ, chúng tôi những đứa nhỏ sanh trưởng ở Sàigòn, rất lạ tai với cách phát âm bỏ dấu nặng trên khắp mọi chữ, nhiều khi ngẩn ngơ nhìn nhau lắc đầu. Mặc dầu trong gia đình tôi hết phân nửa sanh trưởng ở Huế, tôi lắm khi cũng lúng túng không hiểu rõ ràng thầy nói gì. Một vài đứa bạn cùng lớp lần đầu gặp mô, tê, răng, rứa, cào nhào sao trường không mướn một ông thầy miền Nam, thầy Thiều người Huế nói khó nghe quá. Tôi lờ mờ thấy rằng thầy mình cũng là người Việt Nam nhưng vào lúc đó chưa đủ khả năng để đính chính điều sai lầm trầm trọng nầy. Sau nầy, một hai năm sau, khi lớn hơn đôi chút biết về cây một gốc Huế - Sàigòn - Hànội quê hương ta thì thầy không còn dạy nữa. Thầy mất hay về hưu tôi không rõ vì còn mãi mê với những điều khác, chọc thầy Tập Petit Xồi về chuyện chuyên môn đem quyển Le petit Chose của Alphonse Daudet ra giảng, kể cho nhau nghe để cùng cười hì hì về chuyện đã qua mặt được thầy Khiêm với những tờ đơn cáo lỗi vắng mặt đứa nầy viết giùm đứa kia, chuyện hùn tiền mướn ông xích lô già vô gãi đầu gãi tai xin phép vì “con mình” đã bị bịnh nghỉ hết mấy ngày, hoặc rủ những đứa chịu chơi không phải một lớp mà ba bốn lớp lân cận trốn học ngồi lềnh khênh đầy rạp hát bóng Nam Việt hay lang thang khắp nơi trong Sở Thú.

Tôi, nghe lời bạn bè, xin đi tiểu, để qua mấy lớp lớn, đi thật chậm hay thập thò vảnh tai nghe tiếng được tiếng mất mấy ông Tây bụng phệ cắt nghĩa bài để rồi ước ao phải chi mình sanh ra trước vài năm, nói tiếng Tây hay như mấy ảnh, ra đường không sợ ông Tây, bà đầm...

Thầy Thiều thể hiện một sự dung hợp kỳ diệu giữa Đông Tây. Thời đó rất nhiều giáo sư vào lớp, ngồi yên vị trên ghế, mắt nghiêm khắc đảo qua đảo lại xem học trò có đứng nghiêm hay không, sau khi thấy cả lớp im phăng phắc thầy mới ra lịnh ngồi xuống. Chưa hết, tất cả khoanh tay trên bàn, thầy vừa ý mới cho mở tập ra.

Thầy Thiều không vậy, chờ học sinh ngồi xuống là thầy viết bài trên bảng và bắt đầu giảng. Thầy nói đến sự kính thầy học, nhưng không khúm núm, trọng thầy nhưng không sợ để xa cách, thân nhưng không lờn... Với tôi lúc đó như có điều gì lạ lùng trong mấy khái niệm trên.

NGUYỄN VĂN SÂM

(San Antonio, TX 09-82)

Nước Mỹ vĩnh biệt STAN LEE


Nhà văn, họa sỹ nổi tiếng Stan Lee

Tiểu sử:

Nghệ sĩ STAN LEE tên thật Stanley Martin Lieber

Sinh ngày 28/12/1922 tại New York City, bang New York (NY).

Người được biết đến như một nhân vật hàng đầu trong thế giới truyện tranh trong hơn 5 thập kỷ qua với những nhân vật siêu anh hùng mang tính biểu tượng nhất thế giới đã qua đời ở tuổi 95 ngày 12/11/2018, tại Los Angeles, Mỹ.

Ông bắt đầu sự nghiệp của mình tại Timely Comics năm 1939 với vai trò là một nhà văn, nhà biên tập và là một họa sỹ tranh minh họa. Vào đầu những năm 60, Stan Lee nhận lời đề nghị tham gia một nhóm nhằm tạo ra những siêu anh hùng. Với sự giúp đỡ của hai họa sỹ là Jack Kirby và Steve Ditko, Stan Lee đã tạo lên một cuộc cách mạng mà chính ông không nhận ra vào thời gian đó.

Ông đã sáng tạo ra nhiều nhân vật truyện tranh, những siêu anh hùng lừng danh mới, không quá hoàn mỹ như trước mà có tính cách tâm lý phức tạp như con người ở thế giới thực, phải đấu tranh với những thách thức của cuộc sống hàng ngày.

Khi nhắc tới các nhân vật siêu anh hùng, không thể không nhắc tới Fantastic Four (Bộ tứ siêu đẳng), những nhân vật siêu anh hùng đầu tiên do nhóm của ông Stan Lee tạo ra. Sau thành công này, Stan Lee và các cộng sự ở Marvel tiếp tục tạo ra hàng loạt những siêu anh hùng mới như Spider Man (người nhện), The Hulk (người khổng lồ xanh), Iron Man (người sắt) và nhóm X-Men, từ đó tạo đà cho các siêu phẩm điện ảnh hội tụ các nhân vật siêu anh hùng.

Những nhân vật truyện tranh của ông không chỉ thành công trên trang sách, mà còn giúp Marvel Comics thu được những khoản tiền lớn từ phòng vé toàn cầu, vượt qua cả doanh thu của DC Comics, công ty chiếm lĩnh thị trường này trong nhiều năm với những nhân vật như Siêu nhân và Người dơi. Trong những năm tiếp theo, ông Lee trở thành đầu tàu và là gương mặt đại diện của Marvel Comics. Ông liên tục xuất hiện tại các sự kiện truyện tranh khắp nước Mỹ.

Chủ tịch Marvel Studios Kevin Feige khẳng định không ai có thể vượt qua ông Stan Lee về sức ảnh hưởng và sự phát triển của hãng phim Marvel, đồng thời nhấn mạnh di sản của ông sẽ còn sống mãi.


Ông là tác giả truyện tranh, là một diễn viên.

Các nhân vật siêu anh hùng trong vũ trụ truyện tranh Marvel.

Qua thông cáo báo chí, con gái của ông chia sẻ: “Cha tôi luôn coi chuyện sáng tác là nghĩa vụ đối với người hâm mộ. Ông yêu cuộc sống của mình, công việc của mình. Gia đình yêu ông, và người hâm mộ cũng yêu ông. Ông là nhân vật không thể thay thế trong tim mỗi người”.

Trong suốt hơn 10 năm lịch sử của Marvel Studios, Stan Lee góp mặt ở hầu hết bộ phim của hãng với tư cách diễn viên khách mời. Vào năm 2008, ông cũng vinh dự được trao Huân chương Nghệ thuật Quốc gia Mỹ.

Năm 2011, ngôi sao thứ 2428 mang tên Stan Lee được gắn trên Đại lộ Danh vọng (Mỹ). Truyền thông quốc tế cho biết sức khỏe của ông Stan Lee đã có dấu hiệu đi xuống từ vài năm nay do bệnh viêm phổi và giảm thị lực.

Ngay sau khi thông tin Stan Lee qua đời được truyền thông đưa tin, nhiều bạn bè, đồng nghiệp và người hâm mộ vô cùng bàng hoàng.

36 lần âm thầm xuất hiện của “cha đẻ các siêu anh hùng”

“Cha đẻ của các siêu anh hùng” là một ông cụ 94 tuổi, một con người “bằng xương, bằng thịt”, không sở hữu bất cứ siêu năng lực nào.

Các siêu anh hùng của Marvel như Người Nhện, Người Sắt, Người khổng lồ xanh Hulk, Thần Sấm Thor, các Dị nhân X-Men… đã xuất hiện trong rất nhiều loạt phim khai thác về “vũ trụ điện ảnh” của riêng họ. Nhưng cao hơn cả “ vũ trụ điện ảnh ” ấy, còn có một nhân vật cao cấp có công sáng tạo ra họ và kết nối họ lại với nhau, đó là “cha đẻ của các siêu anh hùng”.

Ông là một nhân vật người thật, một con người “bằng xương bằng thịt”, đã ở tuổi 94 - Stan Lee. Ông là tác giả của nhiều nhân vật truyện tranh lừng danh, từng là cựu chủ tịch của hãng truyện tranh nổi tiếng thế giới - Marvel Comics.

Stan Lee đã có công sáng tạo ra những nhân vật siêu anh hùng trứ danh của Marvel, đồng thời đưa lại một vũ trụ siêu anh hùng được khắc họa chi tiết trong các ấn bản truyện tranh, để từ đó tạo đà cho các siêu phẩm điện ảnh hội tụ các nhân vật siêu anh hùng.

Stan Lee là người có công lớn đối với ngành xuất bản truyện tranh ở Mỹ khi ông đưa hãng truyện tranh Marvel Comics từ một công ty xuất bản nhỏ trở thành một tập đoàn truyền thông đa phương tiện khổng lồ. Stan Lee đã từng nhận Huân chương Nghệ thuật Quốc gia Mỹ hồi năm 2008.

Trong thế giới truyện tranh, Stan Lee là một nhân vật huyền thoại không có đối thủ . Ông đã bắt đầu sáng tác truyện tranh từ năm 1939, tạo nên những câu chuyện hấp dẫn độc giả xoay quanh những nhân vật siêu anh hùng trứ danh.

Trong những phim siêu anh hùng gần đây, đều có sự xuất hiện thoáng qua trên màn ảnh của ông Stan Lee, các nhà làm phim đều cảm thấy vinh dự khi được ghi hình Stan Lee trong những vai diễn nhỏ, chủ yếu mang ý nghĩa tinh thần đối với những người làm nghề và các “fan cứng” của Marvel.

- Diễn viên Chris Evans, người nổi tiếng nhờ vai diễn Captain America bày tỏ sự thương tiếc: "Sẽ không bao giờ có một Stan Lee thứ hai. Trong hàng thập kỷ, ông ấy đưa mọi người từ nhỏ đến lớn vào các cuộc phiêu lưu, đào tẩu, với sự thoải mái, niềm tin, cảm hứng, sức mạnh, tình bạn và niềm vui.

Ông ấy luôn thể hiện tình yêu, lòng tốt và sẽ để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa lên cuộc đời của rất nhiều, rất nhiều người".

TỪ KẾT

- The State of New York (NY): Tiểu Bang có diện tích là 141.089 km². New York xếp thứ 27 trong tổng số 50 TB Mỹ về diện tích, thủ phủ là Albany . NY có 10 counties (hạt/ quận) kể cà NYC.

- Tiểu bang New York vừa mất đi một nghệ sĩ lừng danh STAN LEE. Nước Mỹ và thế giới đều thương tiếc STAN LEE.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)


Đẹp ơi là đẹp

Phụ bản II

“Chữ Việt” thời Sài Gòn xưa

DÙNG DẤU HỎI - NGÃ

Cơ bản dễ nhớ để viết chính tả tương đối ổn

và hạn chế lỗi ở mức thấp nhất.

1. DÙNG TỪ LÁY THEO QUY ƯỚC:

- Dấu Hỏi đi với Sắc và Ngang.

- Dấu Ngã đi với Huyền và Nặng.

HỎI + SẮC:

- Gởi gắm, thổn thức, rải rác, khoảnh khắc, rẻ rúng, tử tế, cảnh cáo, sửng sốt, hảo hán, phản phúc, phản kháng, rửa ráy, quả quyết, khủng khiếp, khỏe khoắn, nhảm nhí, lở loét, lảnh lót, bảo bối, thưởng thức, thẳng thắn, thảng thốt, hiển hách, nhỏ nhắn, chải chuốt, rả rích, phảng phất, lả lướt, bổ báng, sản xuất .

- Mát mẻ, sắc sảo, mắng mỏ, vất vả, hối hả, hớn hở, xối xả, bóng bẩy, nóng nảy, sắp sửa, sắm sửa, hớt hải, lấp lửng, khúc khuỷu, tá lả, rác rưởi, trống trải, cứng cỏi, sáng sủa, sến sẩm, xấp xỉ, lém lỉnh, láu lỉnh, ngắn ngủi, chống chỏi, hốt hoảng, rắn rỏi, tức tưởi, chúi nhủi, nhắc nhở, nức nở, sấn sổ, ngất ngưởng, thắc thỏm, thấp thỏm, trắc trở, tráo trở, béo bở, ngái ngủ, gắt gỏng, kém cỏi, khấp khểnh, cáu kỉnh, kháu khỉnh, thất thểu, khốn khổ, tán tỉnh, ngúng nguẩy.

HỎI + NGANG:

- Nhỏ nhen, nhởn nhơ, ngẩn ngơ, vẩn vơ, lẳng lơ, lẻ loi, hỏi han, nở nang, nể nang, ngổn ngang, dở dang, giỏi giang, sửa sang, thở than, mỏng manh, chỉn chu, dửng dưng, trả treo, tả tơi, bỏ bê, mải mê, chở che, bảnh bao, hẩm hiu, phẳng phiu, khẳng khiu, rủi ro, mỉa mai, trẻ trung, nghỉ ngơi, ngủ nghê, tỉ tê, xỏ xiên, ngả nghiêng, đảo điên, hiển nhiên, lẻ loi, thảnh thơi, sản sinh.

- Dư dả, chăm chỉ, năn nỉ, thư thả, thon thả, thoang thoảng, trong trẻo, trăn trở, vui vẻ, thơ thẩn, thanh thản, mơn mởn, xăm xỉa, lêu lổng, hư hỏng, căng thẳng, dai dẳng, xây xẩm, san sẻ, xoay sở, hăm hở, xa xỉ, ngoe nguẩy, phe phẩy, đông đủ, tanh tưởi, chưng hửng, tiu nghỉu, sang sảng, nham nhở, chao đảo, gây gổ, sơ hở, cơ sở, tin tưởng, năng nổ, cưa cẩm, thăm thẳm, đưa đẩy, tưng tửng, say xỉn.

NGÃ + HUYỀN:

- Bẽ bàng, vẫy vùng, nõn nà, vững vàng, đẫy đà, phũ phàng, bão bùng, sỗ sàng, vỗ về, rõ ràng, vẽ vời, sững sờ, ngỡ ngàng, hỗn hào, hãi hùng, sẵn sàng, kỹ càng, não nề, khẽ khàng, mỡ màng, lỡ làng.

- Gần gũi, liều lĩnh, lầm lỗi, gìn giữ, buồn bã, tầm tã, suồng sã, rầu rĩ, thờ thẫn, hờ hững, sàm sỡ, xoàng xĩnh, phè phỡn, bừa bãi, thừa thãi, nghề ngỗng, lừng lẫy, ruồng rẫy, lờ lững, đằng đẵng, mò mẫm, lầm lũi, nhàn nhã, bằng hữu.

NGÃ + NẶNG:

- Lãng mạn, lũ lụt, hãm hại, nhẫn nhịn, lễ lộc, lỗi lạc, rũ rượi, lưỡng lự, chễm chệ, nhã nhặn, mẫu mực, chững chạc, dõng dạc, dữ dội, cãi cọ, nhão nhoẹt, kẽo kẹt, kĩu kịt, nhễ nhại, rõ rệt, lẫn lộn.

- Gọn ghẽ, ngạo nghễ, vạm vỡ, lặng lẽ, lạnh lẽo, bạc bẽo, sặc sỡ, rực rỡ, rộn rã, vội vã, nghiệt ngã, hậu hĩ, hậu hĩnh, ngộ nghĩnh, gạt gẫm, hụt hẫng, dựa dẫm, nhẹ nhõm, bập bõm, chập chững, mạnh mẽ, chặt chẽ, sạch sẽ, ngặt nghẽo, khập khiễng, đục đẽo, ruộng rẫy, giặc giã, giặt giũ, giận dỗi, bụ bẫm, dạy dỗ, gặp gỡ, dụ dỗ, lạ lẫm, rộng rãi, tục tĩu, nhục nhã, dạn dĩ, rạng rỡ, rệu rã.

* TỪ KÉP LÀ TỪ THƯỜNG ĐI MỘT CẶP DẤU HỎI HOẶC NGÃ.

- Lã chã, bỗ bã, bẽn lẽn, bỡ ngỡ, mỹ mãn, dễ dãi, cũn cỡn, lững thững, ngẫm nghĩ, lỗ lã, lẽo đẽo, nhõng nhẽo, mũm mĩm, mẫu mã, vĩnh viễn, nhễu nhão.

- Thỏ thẻ, đỏng đảnh, lẻ tẻ, của cải, lẩm bẩm, lẩm cẩm, lảm nhảm, hể hả, kể lể, nhỏng nhảnh, lủng củng, thỉnh thoảng, lảo đảo, tỉ mỉ, thủ thỉ, lảng vảng, rủng rỉnh, loảng xoảng, hổn hển, lủng lẳng, lỏng lẻo, lải nhải, tủm tỉm, bủn rủn, xởi lởi, tẩn mẩn, lẩn quẩn, thỏn mỏn, chỏn lỏn, giả lả, bải hoải, bổi hổi, lẩn thẩn, lởm chởm, rỉ rả, thủng thẳng, bỏm bẻm, nhỏm nhẻm, xiểng niểng, lẩy bẩy.

2. TỪ NGUYÊN ÂM: DẤU HỎI

Ủa, ổi, ổng, ẩu, ủng, ỷ, ổn, ửng, ổ, ủy, ỏn ẻn, ong ỏng, im ỉm, âm ỉ, ấp ủ, ảo ảnh, ăn ở, êm ả, oi ả, yên ả, óng ả, ẩn ý, an ủi, ỉ ôi, ẩm ướt, ủ ê, uể oải, ít ỏi, ủn ỉn, oan uổng, ăng ẳng, ư ử, oẳn tù tì, ẻo lả, ủ rũ, yểu điệu, ỉu xìu, ảm đạm, uyển chuyển, quan ải, oản xôi, yểm trợ (trừ: ễnh, ưỡn, ẵm, ỡm)

3. TỪ HÁN VIỆT

BẮT ĐẦU LÀ M, N, NH, L, V, D, NG THÌ DẤU NGÃ, CÁC CHỮ KHÁC DẤU HỎI.

Ghi nhớ 7 chữ này bằng câu “Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã”

- M: Mỹ nhân, Mẫu giáo, Mã đáo, Mãn nguyện, Mãng xà, Mãnh lực, Mẫn cán, Miễn nhiệm, Mão mũ.

- N: Não bộ, Nữ nhi, Noãn hoa, Nỗ lực, Nã (truy nã).

- NH: Nhẫn tâm, Nhãn tiền, Nhiễu loạn, Nhũ mẫu, Nhã nhạc, Nhã nhặn, Nhuyễn thể, Nhĩ (mộc nhĩ), Nhưỡng (thổ nhưỡng).

- L: Lão gia, Lễ nghi, Lĩnh hội, Lỗi lạc, Lữ khách, Lãng tử, Lưỡng tính, Lãnh địa, Lũy thành, Lãm nguyệt, Lẫm liệt.

- V: Vãn hồi, Viễn xứ, Vĩ đại, Võ sư, Vũ trang, Vĩnh hằng, Vững chãi.

- D: Diễm phúc, Dũng khí, Dưỡng dục, Dĩ nhiên, Dõng dạc, Diễu hành, Dã ngoại, Dã tâm, Diễn thuyết.

- NG: Nghĩa hiệp, Ngũ cốc, Ngữ hệ, Ngẫu nhiên, Nghiễm nhiên, Ngưỡng mộ, Ngã (bản ngã).

4. HỌ VÀ TRẠNG TỪ: DẤU NGÃ

- Họ Nguyễn, Võ, Vũ, Đỗ, Doãn, Lữ, Lã, Mã, Liễu, Nhữ.

- Cũng, vẫn, sẽ, mãi, đã, những, hỡi, hễ, lẽ ra, mỗi, nữa, dẫu…

5. DÙNG DẤU BẰNG CÁCH SUY LUẬN THEO NGHĨA

NỔI - NỖI:

- Chỉ sự trổi lên hơn mức bình thường thì dấu hỏi (nổi trội, nổi bật, nổi danh, nổi tiếng, nổi mụn, nổi gân, nổi điên, nổi giận, nổi xung, nổi hứng, nổi sóng, nổi bọt, nổi dậy, chợ nổi, nông nổi, làm nổi, trôi nổi, hết nói nổi, chịu hết nổi, gánh không nổi).

- Cái nào mang tính biểu cảm thì dấu ngã (khổ nỗi, đến nỗi nào, làm gì nên nỗi, nỗi lòng, nỗi niềm, nỗi ước ao, nỗi nhục, nỗi oan, nỗi hận, nỗi nhớ).

NGHỈ - NGHĨ:

- Liên quan đến sự dừng lại một hoạt động thì dấu hỏi (nghỉ ngơi, nghỉ học, nghỉ việc, nghỉ hè, nghỉ lễ, nghỉ mệt, nghỉ dưỡng, nghỉ chơi, nghỉ mát, nghỉ thở, nghiêm nghỉ, nhà nghỉ, an nghỉ).

- Thể hiện cảm xúc suy nghĩ thì dấu ngã (nghĩ ngợi, suy nghĩ, ngẫm nghĩ, nghĩ cách, thầm nghĩ, nghĩ quẩn, nghĩ bậy, cạn nghĩ).

MẢNH - MÃNH:

- Cái nào gợi hình dáng thì dấu hỏi (mảnh trăng, mảnh ruộng, mảnh vườn, mảnh đất, mảnh xương, mảnh sành, mảnh vỡ, mảnh khảnh, mảnh mai, mảnh khăn, mảnh áo, mảnh vá, mảnh tình, mỏng mảnh).

Thể hiện tính chất thì dấu ngã (dũng mãnh, mãnh liệt, ranh mãnh, ma mãnh, mãnh hổ, mãnh thú, mãnh lực...)

KỶ - KỸ:

- Gắn với bản thân con người thì dấu hỏi (kỷ vật, kỷ niệm, kỷ luật, kỷ lục, kỷ yếu, ích kỷ, tự kỷ, vị kỷ, tri kỷ, thế kỷ, thập kỷ).

- Gắn với kỹ thuật, trình độ thao tác thì dấu ngã (Kỹ nghệ, kỹ năng, kỹ xảo, kỹ thuật, kỹ sư, kỹ nữ, kỹ lưỡng, kỹ càng, kỹ tính, nghĩ kỹ, giấu kỹ, tuyệt kỹ).

CHÚ Ý:

Quy ước cơ bản chứ không tuyệt đối, vẫn có một số từ ngoại lệ không theo quy ước trên như:

HỎI + NẶNG: - Hủ tục, hủ bại.

Chữ “nữa” viết dấu ngã trong đa số trường hợp, chỉ khi nói về số lượng chia hai như “phân nửa”, “một nửa”, thì viết dấu hỏi.

Bài viết có thể hữu ích ( 有益 ) cho những ai thường phạm lỗi chính tả “hỏi ngã”. Tuy nhiên, phải nên nói rõ hơn là luật “trắc, bằng” thường đi kèm theo với dấu “hỏi” và “nặng huyền” thì thường đi kèm với dấu “ngã” thì chỉ nên áp dụng với chữ kép “thuần” Việt mà thôi. Còn nếu là những từ kép Hán Việt thì “quy luật” đó không có được hiệu nghiệm cho lắm.

Ví dụ như chữ “sản xuất” ( 產出 ) ở trên là tiếng Hán Việt và “tình cờ” nó đi theo cái luật “bằng, trắc”. Tuy nhiên, nếu là “cộng sản” ( 共 產 ) hay “tài sản” ( 財 產 ) thì nó lại không có hợp với luật “huyền nặng”!

Lý do là vì chữ Hán Việt không hề thay đổi từ “hỏi” sang “ngã” hay ngược lại, khi cái chữ đó đi kẹp với những chữ có những dấu khác nhau.

Một khi chữ “sản” đã được viết với dấu “hỏi” rồi thì cho dù nó có đi kẹp với dấu gì đi nữa thì nó vẫn phải viết với dấu hỏi mà thôi.

Giống như chữ “phản ứng” ( 反應 ) thì là đúng với quy luật, dấu “hỏi” đi kèm với dấu “sắc”, nhưng “phản hồi” ( 反囘 ) thì không theo quy luật vì viết với dấu hỏi, nhưng lại đi kèm theo với dấu “huyền”!

Nguồn: tác giả FBK Thủy Bích - Hà Mạnh Đoàn st.


BỐN ĐIỀU CẦN BIẾT KHI NGỦ

Nguyên tắc thứ 1:

Trước giờ Tý nhất định phải đi ngủ

11giờ đêm là thời gian túi mật bắt đầu hoạt động; nếu không ngủ vào giờ đó, khí huyết ở túi mật sẽ bị tổn thương rất lớn.

Ngủ là việc quan trọng trong đời mỗi người. Giờ Tý (bắt đầu từ 11g đêm đến 1g sáng) là khoảng thời gian cần phải đi ngủ, đây mới là lúc khởi đầu của một ngày mới của cơ thể. Khi đó, gan - mật hỗ trợ trong ngoài, hoạt động giống như một thể thống nhất. Vào lúc 11g đêm, túi mật bắt đầu hoạt động, tiết dịch. Nếu không ngủ say vào thời điểm đó, khí huyết tại mật sẽ bị tổn thương nghiêm trọng.

11 cơ quan nội tạng khác còn lại trong cơ thể của chúng ta đều phụ thuộc và liên quan chặt chẽ tới tình trạng của túi mật. Nếu cơ quan này bị hỏng, toàn bộ chức năng của các cơ quan khác trong cơ thể sẽ suy giảm đáng kể, quá trình trao đổi chất, hệ miễn dịch đều bị suy giảm, khí huyết tại mật có liên quan tới khu trung ương thần kinh, nếu khí mật bị tổn thương dễ gây ra các bệnh liên quan đến thần kinh như phiền muộn, tâm thần phân liệt, rối loạn ám ảnh, bồn chồn…

Giờ Tý là thời gian dịch mật bài tiết, khi dịch mật đang tăng lên nếu không nằm ngủ, sẽ bất lợi cho quá trình trao đổi thay thế dịch mới, khi dịch đặc lại quá có thể kết thành cục, lâu dần sẽ kết sỏi, nếu cắt bỏ túi mật, thì toàn bộ hệ miễn dịch của cơ thể sẽ giảm hơn 50%, vì vậy không được cắt bỏ mà phải phát huy những tác dụng tiềm năng của nó.

Nếu bạn không đi ngủ trước 11g đêm mỗi ngày, khi khám bệnh và gặp phải bác sỹ già có kinh nghiệm, họ sẽ nói: “ Không thể trị bệnh ”. Thực ra, không phải họ không trị bệnh, mà là vì họ không điều trị được bệnh.

Tại sao lại nói như vậy?

Những người thường xuyên thức thâu đêm, bất kể là nam hay nữ, đều trực tiếp làm tổn thương tới gan, lâu dần sẽ hại thận, lâu dần sẽ làm tổn thương tới khí huyết cơ thể , mỗi ngày khi soi gương bạn sẽ cảm thấy sắc mặt xám xịt. Khi đó, kể cả hàng ngày bạn có dùng các sản phẩm chăm sóc da đắt tiền, thực phẩm bổ dưỡng hay luyện tập sức khỏe như thế nào, đều khó lòng bù đắp lại những tổn hại do ngủ không đủ giấc và thức đêm mang lại. Do vậy, dậy sớm thì không sao, nhưng ngủ muộn tuyệt đối không thể.

Những người quen ngủ muộn thường có tinh thần mệt mỏi. Ngủ muộn quen, dần dẫn sẽ dễ bị tổn thương tới gan và mật. Những người này mắt thường lờ đờ, tâm tính chán nản, ít có khi vui vẻ.

Còn có những người cho rằng buổi tối ngủ muộn mấy cũng được, ban ngày có thể ngủ bù sau, thực ra không thể bù lại được, nếu cứ ngủ không được, ngủ không đủ giấc, cố gắng cảm giác bù lại được rồi, nhưng thực ra khí huyết cơ thể đã tổn hại rất nhiều rồi.

Nguyên tắc thứ 2:

Tránh suy nghĩ khi ngủ

Có những lúc, nguyên nhân mất ngủ là bởi không bỏ được những phiền muộn trong đầu

Trung Y có quan niệm: “ Tâm ngủ trước, mắt ngủ sau” .

Nhiều nghiên cứu khoa học cũng đã chỉ ra rằng: trằn trọc suy nghĩ là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng mất ngủ.

Muốn đi ngủ vào trước giờ Tý, bình ổn tinh thần và suy nghĩ là yếu tố vô cùng quan trọng.

Bởi vậy, nếu trước khi đi ngủ có nhiều “tạp niệm” xuất hiện trong đầu, chúng ta không nên trằn trọc suy nghĩ trở đi trở lại, tốt nhất là ngồi dậy một lúc rồi ngủ tiếp. Trên thực tế trong cuộc sống hiện đại, muốn ngủ ngon trước 11g đêm, nên lên giường từ sớm, vậy sẽ giúp tinh thần có thời gian trẫn tĩnh lại.

Nếu làm vậy vẫn không ngủ được, trước khi đi ngủ bạn có thể tập cách ngồi đả tọa trên giường, hai tay đặt lên đùi chồng lên nhau, thở đều, cảm giác như toàn bộ các lỗ chân lông đều đang hô hấp theo, đến khi chảy nước mắt ngáp ngủ là đã đạt được hiệu quả cao tốt nhất, đến lúc đó muốn ngủ có thể nằm xuống và ngủ.

Nguyên tắc thứ 3:

Nên có một giấc ngủ ngắn hoặc thiền định ít phút vào buổi trưa

Bên cạnh giấc ngủ dài vào buổi đêm, giờ nghỉ trưa cũng được Hoa Đà coi là “thời điểm vàng” dành cho giấc ngủ. Vào khoảng thời gian từ 11g sáng đến 1g chiều, hãy cố gắng chợp mắt ít phút để tiếp sức cho cơ thể.

Nếu không có điều kiện cho việc ngả lưng, bạn cũng có thể ngồi tĩnh tọa, nhắm mắt 15 phút để dưỡng thần .

Ít ai biết rằng, chỉ vài phút chợp mắt hay tĩnh tọa vào buổi trưa lại có nhiều công dụng bất ngờ đối với cơ thể của chúng ta. Theo đó, 3 phút nghỉ ngơi đúng cách vào giữa trưa có thể sánh với 2 tiếng ngủ sâu.

Ngồi thiền định giúp cải thiện cấu trúc của não bộ

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts đã sử dụng MRI để nghiên cứu tác động của thiền định mang lại trên cấu trúc não bộ. Qua kết quả nghiên cứu ở trên nhóm 15 người từng ngồi thiền từ 1-30 năm và 15 người chưa từng ngồi thiền cho thấy, ngồi thiền giúp tăng độ dày của phần vỏ não ở trước trán (prefrontal cortex), đặc biệt là vùng não khống chế khả năng chú ý và khả năng nhận thức của con người.

Theo một nghiên cứu trước đây đã chứng minh, vùng não này ở các thiên tài âm nhạc nổi tiếng, các vận động viên và các nhà ngôn ngữ học đều tương đối dày.

Nguyên tắc thứ 4:

Chớ nên coi thường việc dậy sớm!

Theo nguyên tắc dưỡng sinh của đạo gia, dậy sớm có lợi cho quá trình trao đổi chất, giúp cơ thể loại bỏ một số chất cặn bã ra khỏi cơ thể. Ngược lại, việc dậy trễ lại làm đại tràng không được hoạt động đầy đủ, không thể hoàn thành tốt chức năng bài tiết.

Bên cạnh đó, từ 7g đến 9g sáng được xem là “khoảng thời gian vàng” cho việc hấp thụ chất dinh dưỡng để cung cấp năng lượng hoạt động cả ngày cho cơ thể. Vì vậy, tốt nhất không nên ngủ nướng, bởi các triệu chứng như chóng mặt, mệt mỏi đa phần đều vì bạn nằm nhiều trên giường.

Theo quan niệm dưỡng sinh cổ xưa, giấc ngủ là sự bồi bổ quan trọng nhất. Bốn nguyên tắc về giấc ngủ do danh y Hoa Đà truyền lại rất thiết thực với cuộc sống, nếu chúng ta có thể thực hiện nó, thì sẽ trẻ lâu với thời gian!

Nên đóng cửa khi ngủ, không nên bật quạt, không nên bật điều hòa

Tại sao lại nên đóng cửa, không bật quạt, bật điều hòa khi ngủ, tại rất nhiều bệnh của chúng ta sinh ra từ việc mở quạt, điều hòa, mở cửa, khi chúng ta chìm vào giấc ngủ, khí huyết lưu thông chậm, nhiệt độ cơ thể hạ thấp xuống, trên bề mặt cơ thể hình thành một tầng khí dương, khi khí dương trong cơ thể đầy đủ, khi ngủ sẽ không bị ác mộng, có thể ngủ ngon.

Nếu mở quạt, mở điều hòa, tình trạng sẽ không như vậy nữa. Khi mở cửa, mở cửa sổ buổi đêm sẽ có gió lùa vào, gió lạnh có thể sẽ đi vào cơ thể. Khi mở điều hòa ngủ ban đêm cũng vậy, khí lạnh sẽ đi vào tận bên trong, làm buổi sáng dậy, chân tay sẽ dễ bị tê cứng, đau khớp, sắc mặt trở nên vàng, thậm chí có người còn bị đau họng, sốt, nguyên nhân là bởi khí phong và hàn đã đi vào tận xương cốt, làm khí bị tổn thương.

Buổi tối đi ngủ, đóng cửa, tắt điều hòa, tắt quạt, hiệu quả là tốt nhất, nếu cảm thấy nóng, có thể mở cửa chính, đóng cửa sổ.

HOÀNG KIM THƯ st.

MỘNG MƠ

Khi còn bé mộng mơ chuyện cổ tích
Gặp bà tiên ông bụt chị hằng nga
Vẽ thật nhiều xanh lá lẫn vàng hoa
Xây toàn những lâu đài lấp lánh

Thời xuân mộng thầm mơ trang hoàng tử
Những vòng tay xao xuyến những nồng môi
Ngẩn ngơ ơi khi đứng cả khi ngồi
Rồi năm tháng dòng trôi còn lưu luyến

Trung trung tuổi càng mộng mơ lắm lắm
Cũng đặt bày ham hố chuyện công danh
Cũng bon chen cũng vật vã tranh giành
Vọng hình khối vọng thang vọng thứ

Nay tóc bạc ngồi mơ này mai mốt
Hãy nhẹ nhàng như thoảng chút sương tan
Đừng rên la đừng xanh mét võ vàng
Nghe tội lắm những đoạn đành sau cuối

Ngẫm thế ra cứ toàn mơ với mộng
Suốt một đời mộng mị để rồi xa.

ĐÀM LAN

Diễm mộng

Phương trời ấy u hoài nhưng quyến rũ

Pho tượng thần tình ái đứng bơ vơ

Nht màu xanh ánh mắt vẫn mong chờ

Thầm dệt giấc mơ hồng trong ảo vọng

Biển sầu chợt vương vương màn lệ mỏng

Quê hương mình cúi mặt khóc rưng rưng

Buồn mông mênh đọng ướt ánh trăng rừng

Sut cuộc sống bạn cùng sương gió mãi

Nước mắt rơi, nhịp tim sầu khắc khoải

Hành tinh nào chuyển hướng giữa đêm mơ

Thiên duyên nào chớm nở dưới trời thơ

Cho giấc ngủ chập chờn muôn nỗi nhớ

u câm lặng nên tình không đổ vỡ

Thun thanh và tha thiết ngút ngàn xa

Xuyên trùng dương lạc bước cuối đường hoa

Thuyền hạnh phúc ngập ngừng chưa đỗ bến.

NGÀN PHƯƠNG

Kiếp sau

Đêm chờ trăng, đêm âm thầm cúi mặt

Ta chờ người - lặng đếm cánh sao rơi

Chim mỏi cánh - gió thu vàng hiu hắt

Hoa rụng tàn - tuyệt vọng khóc đơn côi

Thôi H. nhé, mình hẹn nhau kiếp khác

Làm đôi chim liền cánh vượt trùng dương

Mình sẽ sống, dâng hồn thơ ý nhạc

Dâng cuộc đời trọn vẹn chữ yêu thương.

NGÀN PHƯƠNG

Vườn thơ

Nắng vàng rực nắng một ngày vui
Hoa vàng rực rỡ ánh vàng tươi
Bướm vàng chao lượn tìm hương nhụy
Ta nhả thơ trôi giữa đất trời

Một khoảng trời riêng ta với ta
Thiên nhiên hòa quyện hoa với hoa
Thi viên lắng đọng thơ và nhạc
Ta mãi nhả thơ dệt tơ đời

Viết chữ nhả thơ ngâm lại đọc
Hồn thơ mơ mộng bay theo gió
Ríu rít tiếng chim gọi gió về
Giấc mộng thi nhân lạc cõi mê.

Huỳnh Thiên Kim Bội

PHỤ NỮ VIỆT NAM

Tháng mười ghi nhớ ngày hai mươi

Phụ nữ Việt Nam rạng rỡ cười

Công việc ôm đồm không mệt mỏi

Nhọc nhằn cam chịu vẫn vui tươi

Lo tròn nghĩa nước lòng luôn nguyện

Giữ vẹn tình nhà ý chẳng lơi

Trưng, Triệu tinh thần nêu sáng tỏ

Sánh vai nam giới giúp cho đời.

THANH VĨNH

NGHE MƯA

Tặng Kim Nguyệt

Nghe mưa rơi suổt đêm dài

Triền miên một nỗi ai hoài tâm tư

Người đi chẳng một cánh thư

Mười năm xưa ấy bây chừ còn không

Chỉ còn mưa rớt ngập lòng

Tiếng sầu thôi cũng mênh mông lấp đầy

Người có về chăng đêm nay

Mà sao thổn thức nhớ ngày bên nhau.

HOÀI LY

Lá thắm về đâu

Mây chìm theo bóng ác tà

Hỏi con chim nhạn không nhà về đâu

Trời sa từng giọt mưa ngâu

Biết chim ô thước bắc cầu hay chưa?

Dầu trời lắm nắng nhiều mưa

Cây đa đứng đợi Đò chưa quay về

Trăng trôi theo nước sông quê

Cò chao cánh trắng chở về nhớ thương

Gió thu lá rụng ngập đường

Chỉ hôn lá thắm vấn vương tình buồn.

HOÀI LY

01/4/2016

THÁNG TÁM

MỘNG HỜ

Anh vội vã đi hôm tháng tám
Biết lấy ai nương náu muộn phiền
Bóng anh khuất - Em nơi triền dốc
Ngắm mây trời - Mộng chẳng bình yên

Đời ngả nghiêng tình xa, bước vội
Biển mịt mờ không thấy lối về
Bóng đen phủ đời em hoang phế
Hồn còn mang nặng nụ cuồng mê !...

Đâu đây hương cũ xanh xao đá
Thu về xác lá lấp đường đi
Thêm một lần sầu dâng tháng Tám
Giọt lệ nào còn đọng ướt mi...

Anh có biết mưa dài suối tóc
Nghe thanh âm tiếng khóc vang trời
Em gọi mãi... giữa miền chăn gối
Xa vắng rồi - Tháng Tám bơ vơ !

Phạm Thị Minh-Hưng

NỖI LÒNG !

Biết ai thấu hiểu

Thân nầy nếu được làm đôi:

nửa ra ngoài Huế - nửa Sài Gòn với Con.

Quê Hương hoài niệm đêm ngày
Sài Gòn Con ở - thân nầy làm sao

Tháng năm sống cảnh lao đao
Miền Nam trú ngụ ước ao về nhà

Xa quê tuổi mộng ngọc ngà
Mấy ai thấu hiểu ! Nên thà lặng thinh !

Thần Kinh về chỉ một mình
Con thời ở lại - bệnh tình nặng mang

Ôi sao phận số bẽ bàng
Quê hương - Con cái đôi đàng dở dang

Tôi nào mộng tưởng giàu sang
Cũng không ưa chốn muôn vàn phồn hoa

Với Tôi Con mới thật là
Tim đau rướm máu thế mà ai hay

Rượu đâu muốn uống cho say
Để quên ! Quên hết đắng cay chất chồng.

VŨ THÙY HƯƠNG

NƯỚC LỚN RÒNG

Bến đỗ chưa sang nước vội ròng

Duyên tình chậm trễ lỡ làng bông

Ngày xanh lẩn khuất chân trời tím

Tuổi trẻ lao đao nét má hồng

Trở ngại đời người chua chát khế

Cô đơn bổn phận gập ghềnh sông

Yêu đương dại dột lầm cay đắng

Để mối tương tư phải chất chồng

**

Để mối tương tư phải chất chồng

Hai bên cách trở chạnh lòng sông

Vì đâu lạc bước nơi trần thế

Nên phải phiêu lưu chốn bụi hồng

Ước nguyện trăm năm cho trái quả

Cầu xin một cuộc nở hoa bông

Tìm nơi hạnh phúc làm nhân nghĩa

Vương vấn tình duyên lớn với ròng.

Thanh Châu

THUYỀN CÂU

Ngày đưa Thiếu Bá chơi hồ

Đêm neo Phủ Lý ngồi câu giữa trời

Nghỉ khi trăng gác bên đồi

Neo nơi gió mạnh, biển khơi thổi vào

Chiếu con che bếp, mưa rào

Cột dây cho thấp, qua cầu chắn ngăn

Sinh nhai nào kể xa gần

Chỉ theo con nước, triều dâng triều ròng.

LANG NGUYÊN

LIỄU GIÓ NGHIÊNG

Trăng nằm trên liễu gió nghiêng

Biết rằng quân tử có phiền ta chăng

Trong veo như thấy chị Hằng

Mây trôi lững thững tuyết băng ngàn trùng

Sáng trăng sáng cả ngọn tùng

Vui trăng ta hát, hát cùng mây bay

Dưới trần ra rả tiếng chài

Đông qua xuân lại dồi mài mái tranh

Đôi ta đứng dưới sân đình

Sương rơi mái tóc thấm vào má em

Thò tay anh vuốt ướt nhèm

Hây hây má đỏ, anh thèm hôn môi.

LANG NGUYÊN

MẤT ĐIỆN

Sáng sớm tinh mơ mất điện rồi

Mọi điều dang dở thật lôi thôi

Có mà như thế - thà không có

Nỡ để lòng ta bị rối bời !

DƯƠNG TIẾN CẦN

XIN ĐỪNG VỘI

TRÁCH NHAU

Cuộc đời ngắn lắm, hỡi ai

Chớp mắt một cái đã ngoài bảy mươi

Tuy rằng nói nói, cười cười

Nhưng ai biết được sẽ rồi ra sao ?

Vậy xin đừng vội trách nhau

Niềm vui cùng với khổ đau khó lường !

Sống với nhau hãy yêu thương

Bỏ qua mâu thuẫn, tai ương mỗi ngày

Ta cùng thơ phú mê say

Tâm tư, tình cảm giãi bày cùng nhau

Ganh ghét chỉ thêm khổ đau

Già rồi chỉ muốn làm giàu tình thâm.

DƯƠNG TIẾN CẦN

SẦU LẺ BÓNG

Thuở ấy, đôi mình gặp gỡ nhau
Nhẹ nhàng như nắng cuối nương dâu
Những mong hạnh phúc bên nhau mãi
Và... sẽ yêu nhau đến bạc đầu...

Tình ta nồng mặn biết bao nhiêu
Quấn quýt bên nhau suốt sớm chiều
Hạnh phúc dâng trào như sóng biển
Hương tình ngây ngất trái tim yêu

Sao một chiều anh nỡ bỏ đi
Để em buồn : hát khúc chia ly
Đêm đêm tựa cửa sầu riêng bóng
Thương nhớ bâng khuâng, biết nói gì

Giận hờn buồn tủi mãi không nguôi
Hận gã nhân tình bạc tựa vôi
Mới đó nồng say như mật ngọt
Mà nay : muôn dặm cách xa rồi !

Mới biết : đời người như giấc mộng
Công danh sự nghiệp chẳng bền lâu
Tình yêu như sóng trôi ra biển
Xô trái tim đơn xuống vực sầu !

Chiều nay, lê gót bước lang thang
Thương mối tơ duyên lắm bẽ bàng
Trở lại vườn xưa tìm kỷ niệm
Nhớ người xa cách mấy quan san...

THANH PHONG

CHUYỆN ĐỜI

Thanh niên mạnh khỏe cứ vui chơi

Nhớ liệu sức mình kẻo đứt hơi

Ma túy mê say sang tán tận

Rượu chè bê bết hại thân đời

Lửa tình đeo đuổi nhiều mơ mộng

Ân ái duyên tình nghĩa thắm tươi

Tao nhã thi đàn cùng xướng họa

Thơ ngâm rượu ngọt uống quên thôi.

QUANG BỈNH

TỰ BẠCH

Bảy năm sức khỏe vẫn bình thường

Tập viết mần thơ còn vấn vương

Bảy chữ tám câu vần đối luật

Thơ đường lục bát tỏa tình thương

Giao lưu thi hữu từ muôn nẻo

Kết nghĩa tri âm khắp bốn phương

Tâm trí an nhàn gìn đạo nghĩa

Trau dồi học hỏi mãi lên hương.

QUANG BỈNH

MƯA SÀI GÒN

Sáng lãng đãng, Sài Gòn vừa nắng ấm
Em áo dài, để trang điểm phố phường
Trời trong xanh, mặc quán hẹn chờ mong
Chẳng gì vội cho đôi chân con gái !

Những cụm mây lang thang, rồi tụ lại
Mưa dập dồn, tóc đã chải xong đâu…
Mưa ghẹo trêu con gái buổi hẹn đầu
Mưa bỏ nhỏ: áo dài mau ướt lắm…

Những cánh hoa cứ than dài thở vắn
Bọn bướm ong như tự tử cả rồi
Trời chợt tạnh, lũ lá giũ giọt rơi
Vẫn sũng ướt cái biếng lười Chúa Nhật !

Có lẽ anh vẫn đợi chờ ngằn ngặt
Vẫn bồn chồn mặc đá loãng cà phê
Vẫn ngước mắt dõi ra khắp bốn bề
Chút tức bực hẳn là không đáng kể ?

Ô em xanh, áo em màu rực lửa
Chắc là anh sẽ ngớ ngẩn mắt nhìn
Nghĩ thế, em thả những bước hồn nhiên
Lòng ôn kỹ những lời đêm vừa mộng…

Bước con gái sao nhanh bằng gió lộng
Nắng Sài Gòn chưa kịp ửng môi son
Thì ơ kìa, lại một lũ mưa điên
Lại ập đến bần bật thân ô dại !

Thân con gái bây giờ về ngủ đẫy
Mặc nắng mưa loang loáng đuổi nhau đi
Mặc ai chờ, bởi mưa nắng thế này
Guốc con gái chẳng bao giờ theo kịp…

Ừ!
Mưa Sài Gòn tuy nhập nhằng khốn kiếp
Nhưng gái Sài Gòn chẳng như thế đâu anh
Nắng Sài Gòn tuy tắt bật chông chênh
Nhưng gái Sài Gòn rất chung tình, anh nhé…

LAM TRẦN

TIẾNG VỌNG

CHUÔNG CHÙA

Sáng ngày quét lá sân chùa

Lá vàng khô úa, bốn mùa rụng rơi

Nghĩ suy thân phận con người

Cũng như chiếc lá, lìa đời nằm trơ

Buồn vương năm tháng thẫn thờ

Buông trôi dòng nước, bây chừ về đâu

Từ bi đất Phật nhiệm mầu

Ngồi đây nghe tiếng chuông chùa ngân vang

Lợi danh danh lợi bạc vàng

Tội chi bể khổ, đa mang vào lòng

Phật rằng sắc sắc, không không

Ô hay ! Thế sự trong vòng trầm luân.

PHƯỚC HẢI 01-9-2010

Tình hận sông Vàm

Năm một ngàn chín trăm mười bảy

Đám cưới linh đình rước dâu

từ bến kinh Trảng Bàng qua sông Vàm cỏ

Cô dâu rực rỡ như tiên sa với bảy sợi dây chuyền

tượng trưng cho bảy sắc cầu vồng

Ánh sáng cuối cùng cũng mất đi

lúc ông mặt trời trốn ngủ

Họ nhà gái cùng theo họ nhà trai tấp ghe bước lên bờ

Thấp thoáng bóng nhà trai

với những ngọn đèn măng sông

Sáng hòa với ánh trăng như huyền như ảo

Đồng hồ điểm mười chín giờ đêm

Lúc bước lên ghe cô dâu lẽo đẽo theo sau

chú rể vì mắc cở thẹn thùng

Chú rể cũng bước chân ngại ngùng

không dám nhìn không dám liếc

Cả hai họ vui cười rộn rã

Bất ngờ chú rể không nhìn thấy vợ mình

Không ai biết cô dâu đi đâu

giữa mênh mông sông nước

Như chợt nhớ điều gì chú rể chạy về hướng cầu ao

Mọi người chạy theo sau hớt hơ hớt hải

Họ quơ cây theo dọc mé sông không ai nói lời nào

Họ nhà gái cứ kêu tên con mình gào lên thảm thiết

Khi ông mặt trời thức giấc

ánh sáng đầu tiên còn mờ đặc hơi sương

Dưới cầu ao phất phơ vạt áo hồng

Chú rể thét lên như điên cuồng nhào xuống dòng sông

Ôm xác vợ mình đâu cần biết con nước ròng nước lớn

Hồi ấy sông Vàm cỏ còn rất nhiều cá sấu

Cô dâu quay lại cầu ao

định rửa chân trước lúc lên đèn

Thật bất ngờ con cá sấu trườn lên

Quất thật mạnh chiếc đuôi

làm cô dâu té nhào xuống nước

Vì quá đông người kiếm tìm Sấu chưa xé được

Cặp áo hồng ướt sũng nước sông

Cô tiên nữ kia vẫn mang trên cổ bảy sắc cầu vồng

Đã im lặng nằm gọn trong tay người chồng

Từng làm rể cả năm chưa một lần nhìn nhau rõ mặt

Sau những tiếng thét gào đau khổ

Cả không gian im lặng

Cha mẹ đưa con mình về

Chú rể cũng về theo

Họ đàng trai quay ngược mái chèo

Đưa cô gái trở về bến kinh chợ Trảng

Cả phố chợ hiếu kỳ ra xem chật cứng

Ai nấy cũng nghẹn ngào nức nở khóc phía đàng sau

Thời gian trôi đã mấy chục năm rồi

Tôi lại quen một chàng trai Vàm Trảng

Bà Nội dặn: “Phải nhớ lời ông Cố

Dòng họ Lê không được gả qua Vàm”

Câu chuyện đau lòng đã cả trăm năm

Nhìn sông Vàm cỏ đông lại nhớ người thuở trước

Cô dâu xưa nếu bây giờ biết được

Vàm cỏ đã yên bình biêng biếc nước chảy xuôi.

NGUYÊN LÊ - TRẢNG BÀNG

CHỮ TÂM

Tặng ni sư Nhật Liên

Có một người nương trong cửa Phật

Viết cho tôi chỉ một chữ Tâm

Trang giấy trắng hư không bỗng mang thần sắc

Dưới nét mực nho đậm nhạt hiện dần

Ôi! Chữ TÂM kia còn quý gấp ba lần

Chữ TÀI kia cũng chỉ là phần ngọn

Khi lòng ta đã sáng trong dâng trọn

Cho cuộc đời còn lắm cảnh trầm luân

Tôi chạnh nhớ những người muôn năm cũ

Trải hồn lên giấy đỏ đón xuân về

Cảm ơn người hôm nay tặng chữ

Chỉ một vần TÂM mang cả hồn quê.

Vào Hạ Nhâm Ngọ

LÊ NGUYÊN

TIẾNG VUI SẦU

CHÂN, THIỆN, MỸ rút tơ lòng cống hiến

Trút tinh hoa của trời đất cung cầu

Không hệ lụy với mâm vàng tiệc yến

Đàn so dây chấp nhận tiếng vui sầu.

LÊ NGUYÊN

GIÁO VIÊN CẮM BẢN

Tặng các đồng nghiệp đã & đang công tác miền núi

Tạm biệt ngày hè nơi phố thị miền xuôi
Thầy lên bản để kịp ngày khai giảng
Tay xách nách mang đi từ tảng sáng
Trời nhá nhem mà đâu đã đến trường !

Lòng yêu nghề chứ đâu chỉ vì lương
Mà vật lộn nơi rừng thiêng nước độc
Để các em không mất đi buổi học
Bao gian nan khó nhọc sá gì đâu !

Mái trường tranh, phên nứa nép rừng sâu
Đôi mắt học trò ngóng đợi thầy từng phút
Thạo việc rẫy nương nhưng chưa quen cầm bút
Vẫn chờ thầy đưa nét chữ đầu tiên.

Cả nước hân hoan khai giảng khắp mọi miền
Không khí tưng bừng cờ hoa rạo rực
Bóng bay thả trời gửi niềm mơ ước
Bay về miền sơn cước một chùm thôi !

Để nhóm thêm khát vọng trồng người
Gieo cái chữ nơi núi non cùng cốc
Nơi xa xỉ với hai từ “đi học”
Nơi quanh năm chưa đủ mặc, đủ ăn
Khi khó khăn, vẫn chồng chất khó khăn
Những nhà giáo đâu chỉ là dạy chữ
Bữa cơm quen với rau măng, sắn củ
Đón các em về từ giấc ngủ trên nương

Chiếc áo dài cô cất dưới đáy rương
Cái cà vạt thầy giữ nguyên nếp gấp
Đem ra ngắm, rồi lặng yên... xếp cất.
Muốn khoác lên nhưng khập khễnh... ngượng ngùng…
Đẹp với ai ? - Nơi thủy tận sơn cùng
Khi đám học trò vẫn không quen đi dép
Có phấn son, chẳng mấy khi làm đẹp
Đơn giản là : Nơi ấy chẳng ai xem !
Đôi dép lê lên lớp cũng thành quen
Khi bục giảng vẫn lô nhô đất đá
Lớp học ghép không còn là chuyện lạ
Nơi vùng biên miền núi xa xôi

Hãy một lần nhìn - ngẫm một phút thôi !
Họ là NGƯỜI HÙNG vì tương lai đất nước
Chút đãi ngộ đừng nâng lên - đặt xuống
Bao khó khăn, vất vả thấm vào đâu !

LƯU HƯƠNG QUẾ

Ảnh : Gv trường Nậm Ngà-Mường Tè ngày tựu trường

Bốn mùa

Bây giờ thì chán cả mùa xuân

Những cơn mưa dầm dề sốt ruột

Mây chẳng ra mây âm âm màu lông chuột

Mùa hè ơi! Xin hãy đến mau

Chả thích mùa hè nắng trắng tóc râu

Nóng đến nỗi sợ cả người tình cũ

Mưa đột ngột tàn bạo như thác đổ

Mùa thu ơi! Em hãy đến nhanh nào...

Ôi mùa thu mới bực làm sao

Lòng thao thức nỗi buồn hoang vắng

Cây tàn úa rồi chết trong im lặng

Mùa đông ơi! Hãy đến cùng ta

Bụi mù trời. Rét cào cấu thịt da

Quạ rít lưỡi. Còn gì mà thú nữa

Muốn dài rộng mở ra muôn cánh cửa

Đuổi đông di. Rối rít đón xuân vào...

Cứ thế, bốn mùa mong ước nối theo nhau

Ghét tất cả. Rồi lại yêu tất cả

Cứ thế

Mang lo toan vất vả

Trái đất quay trong HI VỌNG khôn cùng...

Sài Gòn 4-1979

Trần Nhuận Minh

THE FOUR SEASONS

Now I’m fed up with Spring itself

I’m in a fret for having to suffer from soakingly wet rains

Clouds don’t look like clouds with their

mouse’s hair colour

O Summer! Please come fastly

I don’t like Summer with the sun that whitens

hair and beard

It’s so hot that I am even afraid of my old lover

Unexpectedly it pours fiendishly like rapids

O Fall! Just come along quickly...

O Fall what a fretfulness

My restless heart was filled with

a desolated sadness

Trees withered away and died in silence

O Winter! Just come to join me

Pitch dark was the dusty sky. Coldness raked our skin

Crows wail. Nothing delightful remains

One wishes to widely open all doors and gates

Chasing Winter away, then bustlingly welcome Spring...

And so, the four longed for seasons continued

to come one after the other

Hating all of them, then 1oving all of them

And so

Carrying worries and meeting with difficulties

The earth continues to turn in endless HOPE...

Sàigò n 4-1979

Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn

SỐNG THỌ

KHÔNG PHẢI CHỈ DO ĂN UỐNG

HAY VẬN ĐỘNG

Một lý do thật kinh ngạc do Elizabeth H. Blackburn -người đoạt giải Nobel sinh học năm 2009 chỉ ra là người sống THỌ hay không không phải chỉ là do Ăn Uống hay Vận Động; mà còn là Tâm Lý Cân Bằng.

Theo bà Elizabeth H. Blackburn con người muốn sống trăm tuổi, ăn uống điều độ chiếm 25%, những cái khác chiếm 25%, riêng Tâm Lý Cân Bằng chiếm những 50%!

Lý giải như thế nào về việc Tâm Lý Ổn Định ảnh hưởng tới 50% tuổi THỌ?

Chúng ta nên làm thế nào? “Áp lực hormone” gây tổn thương cơ thể!

Nhà nghiên cứu tâm lý học chỉ ra rằng: Một người nổi giận đùng đùng, áp lực hormone tăng sinh, đủ để giết chết một con chuột.

Vì vậy, áp lực hormone, còn gọi là hormone độc tính. Theo Y học hiện đại ung thư, xơ cứng động mạch, cao huyết áp, loét hệ tiêu hóa, kinh nguyệt không đều, 65-90% triệu chứng có liên quan tới áp lực tâm lý. Vì vậy bệnh này còn gọi là bệnh tâm lý.

Nếu con người cả ngày không yên, hay cáu gắt, lo lắng, khiến áp lực hormone luôn ở mức cao, hệ thống miễn dịch sẽ ngăn chặn và tiêu diệt, hệ thống máu huyết hoạt động quá nhiều trong thời gian dài dẫn đến mệt mỏi.

Khi vui, não bộ tiết ra hormone hưng phấn. Hormone hưng phấn khiến con người thoải mái, cảm giác vui tươi, toàn thân rơi vào trạng thái tốt, giúp điều tiết các cơ quan trong cơ thể cân bằng, khỏe khoắn.

Thế thì, trong cuộc sống, chúng ta nên làm như thế nào mới có thể có được hormone hưng phấn, giảm hormone áp lực?

1. Có mục tiêu rõ ràng, nỗ lực đạt được.

Nghiên cứu mới nhất cho rằng, cảm giác đạt mục tiêu càng mạnh càng giúp cơ thể khỏe khoắn.

Bởi vì trong cuộc sống, đam mê quyết định tâm thái con người, quyết định trạng thái sống.

Người nỗ lực đạt mục tiêu não bộ trong trạng thái thoải mái phát triển, vì thế, thường dùng não bộ sẽ thúc đẩy hoạt động não, đẩy lùi tuổi già…

Người trung lão niên sau khi nghỉ hưu có thể đọc sách, khiêu vũ, hội họa, giúp não bộ luôn trong trạng thái hoạt động.

2. Giúp đỡ người khác làm niềm vui có tác dụng trị liệu tốt…

Nghiên cứu chỉ ra, giúp đỡ người khác về vật chất, có thể giảm tỉ lệ tử vong xuống 42%, giúp người khác ổn định tinh thần, có thể giảm tỉ lệ tử vong dưới 30%.

Bởi vì tốt với người khác, hay làm việc thiện, sẽ có cảm giác vui tươi và tự hào, giảm hormone áp lực, thúc đẩy hormone hưng phấn.

Chuyên gia tâm lý và tâm thần học nói: duy trì thói quen giúp đỡ người khác là phương pháp phòng và điều trị trầm cảm.

3. Gia đình hòa thuận là bí kíp sống lâu.

Hai nhà tâm lý học người Mỹ công bố kết quả nghiên cứu trong vòng 20 năm là cho thấy là trong số các nhân tố quyết định tuổi thọ, đứng số 1 là “quan hệ người với người”.

Họ cho rằng, quan hệ con người với con người quan trọng hơn rau cỏ hoa quả, việc thường xuyên luyện tập và rèn luyện trong thời gian dài.

Liên hệ người với người không chỉ bao gồm bạn bè, còn bao gồm quan hệ gia đình.

Vì thế, gia đình hòa thuận, bạn bè tốt là một trong những yếu tố quyết định tuổi thọ con người.

4. Cho đi điều thiện sẽ nhận lại điều thiện.

Khi chúng ta cười với người khác, người khác cũng sẽ cười lại với chúng ta. Bất luận là ở cùng bạn bè hay là cùng những người bạn cũ trò chuyện, hãy nhớ luôn giữ nụ cười, cho đi niềm vui.

“Tinh thần không thoải mái, sẽ dẫn đến bệnh gan” Có người từng làm thực nghiệm như sau: Sau khi tách nội tạng động vật, giữ nguyên liên kết tĩnh mạch gan và động mạch bụng, tim lập tức co bóp mạnh và tĩnh mạch máu bắt đầu lắng lại, động vật chết từ từ, có thể thấy gan có liên kết chặt chẽ trong việc điều tiết lưu lượng máu…

Tinh thần không thoải mái, khi tức giận, sẽ ảnh hưởng tới hoạt động gan, dẫn đến tình trạng khô gan và khô máu ở gan.

“Không tức giận, không sinh bệnh” Tinh thần là thể năng của con người, nhưng trong cuộc sống bộn bề lo toan, áp lực tinh thần tự nhiên sẽ gia tăng, thế là các áp lực tinh thần sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe con người.

Hiện nay theo thống kê của Bộ Y tế Thế giới, trên 90% bệnh đều có liên quan tới tinh thần.

Chỉ cần chúng ta giữ tinh thần thoải mái, thì sẽ không mắc bệnh, không mắc bệnh nghiêm trọng, ít bệnh, muộn mới mắc bệnh.

“Tâm phải TĨNH, Thân phải ĐỘNG”

Dưỡng tâm, an tâm, cải tâm, giữ tinh thần thoải mái, là một cách dưỡng sinh, có thể không được mọi người quan tâm, vì thế mới xuất hiện “những bệnh tiêu hóa khó chữa”, “bệnh viêm cả đời không khỏi”...

Tâm Tĩnh thì Thân An, thân an thì khỏe mạnh, tâm an bách bệnh tiêu trừ...

Hoạt động có thể sinh dương khí, đả thông âm khí, giúp tuần hoàn máu, cơ thịt phát triển, khoẻ gân cốt…

Tâm phải Tĩnh, Thân phải Động, giữ cân bằng, đó là tam đại pháp bảo của bất cứ môn phái dưỡng sinh nào…

Thực tế, quyết định tuổi thọ con người không chỉ là ăn uống và vận động, còn là tâm tính vui tươi, tâm thái tích cực cũng vô cùng quan trọng!

Đào Minh Diệu Xuân st.


Phụ bản III

LÚC CÒN THƠ NGÂY

(Tiếp theo số 160)

Đã ngồi trong xe rồi, Chi vẫn chưa hết hồi hộp, lo âu. Nam nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của cô gái, như muốn truyền sự bình yên cho nàng. Hai người trẻ cùng tâm trạng như nhau, nhưng Nam thì giữ được sự bình tâm hơn.

Xe dừng lại nơi đầu đường Nguyễn Huệ, sát gần Tòa Đô Chính, Nam mở cửa xe, cho Diệu Chi bước xuống, cô gái còn đang lơ ngơ, anh đã dắt tay cô đi vào hẻm Passage Eden thẳng vào tận bên trong, thì ra có một tiệm ăn nằm ở cuối hẻm. Nam đưa Chi đến bàn đặt sát vách cuối tiệm, kéo ghế cho cô ngồi day mặt vô, rồi anh mới ngồi vào phía đối diện, thì ra anh đưa cô gái nhỏ đi ăn sáng.

Thấy Chi vẫn còn giữ vẻ e ngại, không nói lời nào cho đến khi người bồi bàn đến trước hai người, Nam liền gọi luôn món hủ tiếu Nam Vang cho hai người.

- Em ăn đi, xong rồi mình nói chuyện nghe.

- Dạ .

Diệu Chi dùng xong, gác đũa, Nam đưa khăn tay cho nàng lau miệng, và gọi nước uống cho cô bé. Diệu Chi vừa thẹn vừa cảm động, lúc này cô mới nhỏ nhẹ lên tiếng:

- Bây giờ có chuyện gì, anh nói em nghe đi, rồi em còn về, sợ chị Mua chờ lâu, về trễ mẹ em la chết đó.

- Ừ, thôi để anh nói nhé, trước hết, anh cám ơn Diệu Chi đã chấp nhận quen anh, làm bạn với anh, nên anh rất vui.

- Không có gì đâu anh, nhưng Chi chỉ là một cô gái nhỏ, chưa hiểu biết về sự giao tiếp, cách đối xử với mọi người ngoài xã hội, với lại Chi là người con gái tầm thường, không có gì xuất sắc như các bạn khác, lại ốm yếu, bệnh tật...

Nam vội cắt ngang lời của cô:

- Em đừng nói vậy, anh kết bạn với em vì em là em thôi, em là người hiền lành, nhỏ bé giản đơn, chỉ vậy thôi, em đừng suy nghĩ xa xôi rồi mặc cảm buồn. Với anh thì vẻ bề ngoài không là gì cả, anh nói rất thật lòng, sau này từ từ em sẽ hiểu anh hơn Diệu Chi à. À, còn một việc này nữa, anh muốn nói cho em biết là từ ngày mai anh sẽ tình nguyện vào quân ngũ theo Lệnh Tổng động viên của Bộ Quốc Phòng em ạ.

- Anh đi lính sao Nam .

Diệu Chi hỏi mà rưng rưng muốn khóc, Nam vội vàng đi sang ngồi xuống ghế cạnh cô bé vỗ về an ủi:

- Chi ơi, em đừng buồn, bây giờ là thời chiến mà em, người trai nào đến tuổi mà lại không đăng lính, trừ khi không muốn thôi.

Diệu Chi vẫn chưa hết nỗi buồn chợt đến, cô ngước nhìn Nam nói nhẹ:

- Rồi chừng nào anh đi, mà anh vào binh chủng nào, hai đứa mình chỉ mới quen nhau, em lo lắm...

- Em đừng lo, anh gia nhập Hải quân mà, anh đã đăng tên, hai ngày sau anh ra Nha Trang để tập trung huấn luyện một thời gian, nên hôm nay gặp em báo tin và từ giã.

Nghe Nam nói thế, bỗng Chi trào nước mắt, từng giọt lệ rơi trên má, chàng trai giật mình, vội rút khăn mùi xoa lau lệ cho Chi và luôn miệng dỗ dành:

- Nín đi em, đừng khóc, anh buồn lắm. Rồi anh sẽ về thăm, ở nhà hãy ráng học giỏi. Bây giờ anh đưa em về trường, kẻo chị Mua đợi lâu về trễ, sợ em bị rầy.

Nam đưa Chi đến trước Trung tâm, thì đã thấy chị người làm đang đứng nhìn dáo dác, ngóng tìm Chi. Xe ngừng lại, thấy Chi bước xuống, chị thở ra nhẹ nhỏm:

- Kìa cô Hai, mau lên, trễ lắm rồi, mợ đang chờ cơm cô ở nhà, mợ la tui chết luôn.

Hai người phụ nữ vội vàng leo lên chiếc xích lô, hối đạp lẹ về nhà, để mặc Nam đứng ngẩn ngơ nhìn theo.

Trên đường về, ngồi kế bên Chi trong xe, chị chợt thấy hai mắt cô đỏ và hơi sưng, hoảng hồn, hỏi ngay:

- Chuyện gì vậy cô, sao cô khóc?

Diệu Chi lắc đầu buồn bã, không nói, chị thấy vậy cũng im luôn.

Đến đầu hẻm, Chi bước xuống đi nhanh vào nhà và rút nhanh vào phòng riêng. May là cả nhà đều ở trong phòng ăn, nên không ai thấy Chi về với nét mặt buồn lạ lùng. Cô quăng cặp lên giường, rồi nằm úp mặt vào gối, nước mắt lại tuôn ra. Cô nhớ lại lời nói của Nam hai đứa chia tay: “Em ở lại học giỏi, giữ gìn sức khỏe và nhớ anh” và anh đưa tay vuốt mái tóc búp bê của Diệu Chi, nói thầm bên tai cô:

- Anh muốn mái tóc em sẽ dài và đẹp hơn cho đến khi anh trở về nghe em.

Có tiếng gõ cửa phòng, rồi chị người làm gọi nhỏ:

- Cô Diệu dậy ăn cơm, bà nội và mợ chờ kìa.

Chi nhỏm dậy trả lời giọng nghèn nghẹt:

- Em không ăn đâu, chị nói với bà nội và mẹ giùm em đi, em chỉ muốn ngủ thôi.

Chị Mua đành quay xuống phòng ăn, nói lại với mọi người.

Ngày tháng qua mau, Nam đã đi xa để làm tròn trách nhiệm của người trai thời loạn, Diệu Chi ở lại nhà với nỗi nhớ mong, và có những lá thư xanh từ miền biển xanh gửi về. Bỗng một hôm, giờ tan học ở Trường Anh Văn HN đường Nguyễn Trãi, có một chàng trai trẻ mặc quân phục màu xanh biển, calot trắng Hải quân đứng trước cửa hàng đón Diệu Chi như ngày nào. Cô gái nhỏ vỡ òa nỗi mừng vui đến nghẹn lời, chỉ biết đứng lặng im nhìn người trai trẻ đã trở thành lính chiến. Nam đến trước mặt Chi, cầm tay và nhìn vào mắt cô với niềm thương yêu vô bờ bến. Hai người đi bên nhau trên hè phố dẫn đến ngôi giáo đường trước mặt. Nam và Chi đi qua cổng nhà thờ đến ngồi trước hang đá Đức Mẹ. Diệu Chi nắm lấy tay chàng trai, giọng nói mừng rỡ lẫn hồi hộp hộp:

- Anh mới về, đã mãn khóa rồi hả anh?

Nam cười vui:

- Khóa huấn luyện vừa kết thúc là anh “nhảy lên xe” về với em liền nè, em vui không?

Diệu Chi đáp lại giọng cảm động:

- Em mừng lắm.

- Anh được nghỉ năm ngày phép, sau đó sẽ trình diện Bộ Tư lệnh, nhận Sự vụ lịnh ra đơn vị.

- Anh về đơn vị nào?

- Anh chưa biết nữa em, chỉ khi nhận giấy ra đơn vị mới biết được.

Sau đó, đôi bạn tay trong tay yên lặng hồi lâu. Diệu Chi ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ, suy nghĩ khá lâu, rồi quay sang Lê Nam ngồi kế bên:

- Chúng mình cùng cầu nguyện với Đức Mẹ đi anh, Mẹ Maria sẽ phù hộ cho anh, đi vào cuộc chiến luôn được bình yên, anh đăng lính rồi, em rất lo lắng anh ơi, tuy còn nhỏ, nhưng hàng ngày nghe tin chiến sự qua báo chí, ti vi em cũng hiểu phần nào đó anh.

Nghe Chi nói thế, Nam thấy thương nàng quá, đưa tay vuốt tóc mái tóc đã hơi dài của nàng:

- Em đừng lo quá, sau những chuyến hải hành, khi tàu về bến, anh sẽ về với em. Bây giờ chúng ta cùng cầu nguyện đi em, tuy còn ngoại đạo nhưng anh tin Chúa và Mẹ Maria như em vậy.

Đôi bạn đến quỳ trước hang đá, Diệu Chi thành kính làm dấu thánh giá, thầm thì đọc kinh cầu nguyện, Nam cũng làm theo Chi, chắp tay cúi đầu trước tượng Mẹ và bóng thánh giá giáo đường cổ kính, chàng cầu cho chuyện tình của cô gái nhỏ và anh chăng? Chỉ biết sau khi rời khỏi nhà thờ trở lại trường Anh ngữ HN, cả hai đều trầm ngâm, như nghĩ ngợi gì xa xôi lắm. Chợt anh quay sang nắm bàn tay nhỏ nhắn, trịnh trọng nói như một lời thề hứa:

- Anh sẽ chờ em, đóa hoa hàm tiếu của anh, đến tuổi trưởng thành lúc đó anh sẽ xin ba má sang nhà xin ba mẹ cho em về với anh nhé.

Lời nói của người lính trẻ đã khắc sâu vào tâm hồn thơ ngây trong sáng của Diệu Chi mãi cho đến khi...

Sau lần mừng sinh nhật thứ mười sáu của cô bé mang tên rất dịu dàng ấy, Lê Nam đã theo một Tuần Dương hạm lênh đênh sông nước biển trời bằng những chuyến hải hành dài dằng dặc. Ở lại thành phố, Chi chờ đợi những lá thư xanh gửi từ xa về, đầy những nhớ thương và chuyện kể những khi tàu ghé những hải đảo xa xôi, bến cảng nào đó, khiến Chi vừa buồn, vừa thích thú lẫn thương mến anh, người lính biển.

Nhưng chuyện tình yêu của hai người dù có giữ kín đển đâu, thì cũng vỡ lở, vì có một hôm, Diệu Chi đi học mà quên khóa tủ áo, thêm việc còn gắn chìa khóa ở ổ khóa, cũng quên luôn việc khóa cửa phòng mình mới chết, cả chị Mua cũng không nhớ luôn việc ấy, thế là khi bà mẹ đi vào phòng của con gái, mở tủ áo, cất mấy chiếc áo đầm đồng phục hồng, trông thấy một hộp bánh Biscuit đựng đầy những lá thư màu xanh gửi từ KBC đến...

Thế là chiều hôm ấy, bà mẹ cầm chiếc roi mây dài đứng nơi thềm nhà đợi con gái yêu đi học về... Một trận đòn đích đáng đổ xuống như mưa, làm Chi khóc mờ mắt mà bà nội cũng ra ngăn cản không kịp, đành đứng nhìn cháu cưng mà rưng rưng nước mắt. Chị Mua thì trốn trong bếp sụt sùi liên tục. Bà mẹ thì cứ mỗi roi quất xuống là một câu: “Đi học không lo, lại thư lại từ”. “Sang năm thi rớt là bỏ vào nội trú luôn, không cho về”, cho đến lúc bà ngẩng lên nhìn thấy bà mẹ chồng đứng tựa trước cửa phòng khách, mắt đỏ hoe, bé Phương Chi mặt mũi xanh lét, tay chân run rẩy theo từng ngọn roi đánh chị, bà Thu liệng cây roi xuống đất, quay lưng đi về phòng. Bà nội lật đật chạy lại đỡ Diệu Chi ngồi lên, lấy khăn lau mặt cho cháu, rồi dắt Chi vào phòng, bắt cô nằm sấp để bà thoa dầu vào những vết roi lằn ngang lằn dọc trên mông, cô bé đau quá, khóc nức nở làm bà nội xót xa quá:

- Nín đi con, tại con chớ ai, bày đặt thư với từ cho mẹ mày đánh, ba con mà hay thì còn phạt con nặng hơn nữa kìa, bà nói cho biết.

Diệu Chi bậm môi làm thinh, không nói tiếng nào, nằm úp mặt xuống gối, thấy vậy bà nội đành lắc đầu đi ra.

Lát sau, chị Mua rón rén bước vào,nhè nhẹ đặt tay lên vai Chi, cô giật mình xoay lại thấy chị giúp việc tin cậy, cô mếu máo nói:

- Chị ơi, em khổ quá.

Chị Mua vội ngồi xuống giường dỗ dành cô gái:

- Đừng buồn nữa cô Hai, mà cũng đừng giận mợ Năm người lớn có lý lẽ của người lớn, cô ráng học sang năm thi đậu cho mợ thấy việc quen với cậu Nam không làm cho cô lơ là việc học nhen cô.

Chi nghe những lời khuyên chân thành của chị Mua, gạt nước mắt, gương mặt thoáng vui, đi theo chị ra sau bếp rửa mặt, xong trở về phòng giở lại bài học cho sáng hôm sau, sau khi chị Mua đã đem vào một mâm bánh mì trứng chiên omelette kèm theo ly sữa nóng thay cho bữa cơm chiều bị bỏ quên. Tội nghiệp cho cô bé thơ ngây Diệu Chi!

Mấy tháng sau, Diệu Chi nhận được thư Lê Nam gửi về qua địa chỉ của Kiều My, bạn cùng lớp chuyển lại, Nam cho biết: chị Mỹ Lệ viết thư cho biết là bà nội Chi đã qua nhà “mắng vốn”chị, yêu cầu anh không được quen và viết thư về cho Chi nữa. Nhưng cuối thư, Nam viết:

“Anh thương em nhiều lắm, anh sẽ chờ đợi em lớn lên, nếu ba mẹ hai bên không bằng lòng tác hợp cho chúng ta, thì anh và em sẽ tự kết hôn, lúc đó anh đã đủ năm, thôi đi biển và lên bờ công tác, Diệu Chi hãy chờ anh em nhé!”

Đó là lá thư cuối cùng của Lê Nam gửi về, vì sau đó Nam thuyên chuyển về Giang Đoàn đóng tận vùng Năm Căn Cà Mau, lý do về thăm nhà trở lên Sài Gòn trình diện trễ phép khi tàu HQ 502 đã rời bến cho một công tác đặc biệt (chị Mỹ Lệ đã gặp Chi để báo tin như thế).

(còn tiếp)

HOÀI LY


NẺO CŨ

Bây giờ thì bà Xuân đã nhận ra khuôn mặt trông quen quen này rồi. Đúng vậy! Lúc xưa, cô ấy mập hơn bây giờ nhiều. Chợt, bà “á” lên:

- Nếu bác không lầm, thì cháu là Sương phải không?

- Dạ phải rồi má… Dạ quên! Cháu xin lỗi, phải rồi đó bác: cháu là Sương đây, đứa hồi đó phụ bán hàng cho bác ấy mà…

Vầng trán nhăn nheo của bà Xuân cứ như một cuộn phim chiếu lại từng phân cảnh ngày nào…

Dạo ấy, bà bán hủ tíu trước nhà, xóm này có ai mà không biết? Bà chỉ có độc một thằng con trai ham chơi như quỷ. Chậc! Con trai vốn thế mà! Vì nghĩ thế, nên bà cũng mặc kệ nó đi đi về về như một bóng ma. Nói tới ma, thì chính chồng bà chẳng là một bóng ma, thì là gì được bây giờ? Có lẽ ma vẫn hoàn ma, nên một sáng lung linh nắng, người ta báo cho bà một tin rất muốn nghe mà không muốn thấy:

- Bà… hủ tíu, chồng bà chết giữa đường kìa!

Hơi tê tái một chút, rồi bà trấn tĩnh lại ngay, lắp bắp:

- Ổng… chết hả?

- Ừ… Ổng chết ngoài kia kìa…

Hm, chính con Sương chớ ai, la làng:

- Hàng xóm ơi! Coi hàng cho con chút, để con dắt bác Xuân…

Rồi cô… vác luôn bà Xuân, chạy ra đầu đường, nơi chồng bà đột quỵ từ tờ mờ sáng, sau chầu nhậu mà ông là kẻ cuối cùng ra về, quên cả trả tiền, rồi chết khi cách quán hủ tíu ồn ào chừng dăm bảy chục bước chân chậm rãi.

Con Sương khóc như cha chết, trong khi thằng Tài - con trai bà Xuân - chỉ biết lầm lỳ đứng đó, nhìn mọi người lăng xăng lo cho cái thi hài cha mình được nằm trong cỗ quan tài sáng rỡ, bù cho chỗ ông nằm thở hơi cuối cùng, là một vũng tối ướt át sau cơn mưa đêm rất lặng thầm.

Thật ra, chồng chết thì bà Xuân đỡ phải lo hơn khi ông còn sống. Bà không còn phải đợi chờ tiếng ông lẹp xẹp về tới cửa rồi nằm xuội ra đó, chờ bà mở cửa, lôi cái thân xác mềm oặt vì rượu của ông vào nhà! Bà không còn phải đợi mấy chủ quán nhậu quen mặt tới nhà chìa hóa đơn, ghi nguệch ngoạc số bia ông tọng vào mồm cả tuần lễ mà chẳng trả đồng nào, trừ mấy tiếng lè nhè:

- Vô đòi bà xã tui nhé…

Nói vậy, hóa ra bà Xuân không thương chồng sao? Có chứ! Không thương, không yêu thì lấy cái thằng cha thương phế binh vô dụng ấy làm gì cơ chứ? Không thương, không yêu thì làm sao thông cảm cho người đàn ông sinh bất phùng thời như mọi kẻ bất phùng thời khác, mà trìu mến, mà an ủi, mà xót xa… cho cái kiếp sống có vẻ như thừa thãi rồi bất cần đời như vậy cơ chứ? Thương cay, thương đắng nữa kìa: Nghĩa là biết ông bê tha vì bất đắc chí nhưng đành kệ mặc ông với những cơn say rồi hát những bài nhạc sầu của một thời chiến tranh, mà vẫn dúi tiền cho ông để say những ly bia đơn độc. Thương ơi, thương hỡi nữa kìa: Nghĩa là bà đành nuốt nước mắt vào trong, khóc một mình vì nghĩ rằng đã không làm được cho chồng mình lại đứng lên hiên ngang như một thiên thần mũ đỏ ngày nào, tủi một mình vì chân yếu tay mềm, mà đã không thay thế được ông mà dạy bảo để thằng con trở thành người hữu dụng.

Chỉ có con Sương là tả xung hữu đột cho cái đám tang của ông phế binh tội nghiệp! Chính cái thân xác cao lớn của cô đã lo lắng chu tất đến tận cái huyệt mộ đầy nước mưa, y như cô đã sừng sững trông nom giùm bà chủ mình, nào nấu nướng, nào dọn dẹp, nào bưng bê, nào chợ búa, khiến bà Xuân có lúc nghĩ rằng, chính con Sương chứ không phải là bà, mới là chủ của cửa tiệm hủ tíu đầu ngõ này.

Chẳng như mấy đứa giúp việc khác nay ưỡn mai ẹo, cô xăng xái chu toàn mọi việc với nụ cười rất luôn sẵn sàng. Cũng chẳng thấy cô đau ốm bao giờ, trừ ra có một hôm, chai nước ngọt bỗng phát nổ, khiến một mảnh vụn của nó cắm vào bắp chân cô chảy máu. Cô hềnh hệch:

- Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ bác ơi…

Vừa nói, cô vừa nhổ mảnh chai ấy ra, rồi mặc cho bà chủ mình tru tréo, cô điềm nhiên để máu chảy hết chỗ dư, mà nghiêng cái xe hủ tíu, cho trào hết thứ nước xà bông mà cô mới rửa xong cho nó. Dù vết thương chẳng có gì quan trọng, nhưng mãi mà nó không lành, nên cô cũng chiều ý chủ mình, ra trạm y tế để thăm khám xem cô có bị tiểu đường, mà theo sự suy luận rất đàn bà của bà Xuân, có thể là nguyên nhân khiến vết thương cứ dai dẳng trên cái bắp chân có vẻ hơi phù nề lo lắng. Khi về, cô nhe răng:

- Cháu bình thường mà…

Lạ là, lúc này có người kề tai bà Xuân, nói nhỏ:

- Bộ hết người hay sao mà bà lại thuê đứa… có bầu!

- Nó mập chứ bầu bì gì!

- Nhìn cái bụng nó kia kìa: một đống!

- Ừ! Nó ăn như trâu lấy đâu bụng không đầy mỡ! Mà nó tối ngày trong nhà thì bầu bì nỗi gì chứ?

- Lỡ nó đi chợ, rồi…

- Lộn xộn! Nó đi chợ với tôi chứ có đi một mình hồi nào…

Miệng nói thế, nhưng bà cũng nghi nghi, hay tại nó có thai nên chân tay phù nề ra chứ tiểu đường tiểu muối gì? Mà cái con này, nếu nó có bầu sao chẳng thấy nghén ngúng gì vậy? Nghĩ sao cũng rối! Có lần, bà dợm dợm hỏi nó, thì nó tròn xoe mắt:

- Cháu mà có bầu ư! Mẹ ơi…

Rồi một hôm, bà của Sương - người đã giới thiệu cô cho bà Xuân - đến thăm cháu mình. Vừa nhìn thấy cháu, bà đã nói nhỏ với bà Xuân:

- Sao con Sương có thai vậy?

- Nó có thai hồi nào?

- Cái bà này, có con mà còn không biết! Nhìn cái cổ nó thở, là tôi biết ngay nó có thai!

- Ơ…

- Bà phải biết, tôi là bà lang thuốc bắc đấy nhé…

Chẳng biết bà cháu họ nói chuyện gì với nhau, mà ngay tối hôm ấy, Sương giã từ quán hủ tíu mà cô đã gắn bó được nửa năm, đã cùng mẹ con bà Xuân chôn xác người chồng bất đắc chí đến nỗi thành nghiện rượu, rồi biệt tăm từ đó!

Thế mà bây giờ, cô ấy lại đến đây, với đứa bé xinh xắn, tròn trịa, đang vòng tay, chào đi chào lại:

- Con chào bà, con chào bà, con…

- Ồ! Cháu ngoan quá! Bà xin lỗi đã để cháu chào hoài chào hủy… Cháu tên gì?

- Dạ, con tên Mây…

- Ồ! Tên con đẹp quá. Mẹ Sương, con Mây… Thật là khéo…

- Ba con đâu?

- Dạ, con không có ba…

Bà đưa mắt về phía người mẹ trẻ tuổi mà đã lâu rồi chưa lần gặp lại. Sương lắp bắp:

- Nó không có bố ạ…

- À… Bác xin lỗi cháu…

Bà xin lỗi, vì bà mới tự giật mình khi nhớ ra cô Sương dạo ấy, rời khỏi nhà bà khi cái bụng đã tố cáo với mọi người, trừ bà ra, về cái bào thai đang phát triển. Bà cũng không hiểu “không có bố” có nghĩa là gì nữa, ngoài cái sự hiểu rất cám cảnh là hoang thai. Bà cũng không dám hỏi gì hơn, vì sợ cô buồn. Bà nhớ, tuy ở trong nhà bà một thời gian ngắn, nhưng rõ ràng bà rất thích cô, đến nỗi, giá mà cô còn cha còn mẹ, lại không phải là kẻ mới vào nam, và giá mà - tuy không quan trọng lắm - là cô bớt to con tốt tướng một tí, thì bà đã kiếm cách để cô làm con dâu của mình, bởi bà nghĩ, thằng con bà nếu được “kềm kẹp” bởi một người vợ chịu khó như cô, thì may ra mới hết cái tính lông bông, lười biếng…

- Bác làm gì mà… thừ ra vậy?

- Ơ! Bác nghĩ vớ nghĩ vẩn ấy mà…

- A! Còn anh Tài đâu, sao không thấy ạ…

- Ai mà biết nó chết bờ chết bụi ở đâu. Đi tối ngày à!

- Ảnh có mấy đứa rồi bác…

- Vợ chưa có, nói gì con… Giá mà…

- Giá… gì cơ?

- Thật khó nói… Giá nó có con vợ như cháu thì hay biết bao…

- Cháu như cái bồ tượng mà hay ho gì. Mà bác biết cháu… hư lắm rồi mà!

- Già như bác mới ngẫm ra một điều là, ở đời, chẳng gì là toàn vẹn. Miễn là khi ngã, ta biết cách đứng lên…

- Vâng! Cháu cũng biết thế, nên suốt đời, cháu chẳng kiếm tìm thêm một người nào khác để làm bố của con Mây nữa. Một lần là đủ! Một người là đủ, cho dù…

-

Rồi mắt cô đỏ hoe. Bà Xuân thấy chạnh lòng:

- Nếu cháu không ngại, thì cứ coi bác như mẹ… Thỉnh thoảng cứ dắt bé Mây đến đây mà chơi. Mà bác cũng đâu có nhiều con cái…

Mơ hồ, bà thấy cô gật đầu. Cái gật nhẹ như tơ, chỉ có thể cảm nhận trong hơi thở lặng thầm, chứ không thể thấy rõ ràng dưới ánh mặt trời lung linh đang tỏa sáng ngoài kia. Môi bà động đậy:

- Được không, Sương…

Lần này thì nước mắt cô ràn rụa. Cô ôm chầm lấy bà, thút thít:

- Vâng, má ạ…

Có tiếng người xô cổng: con bà chứ ai! Hắn tròn xoe mắt, đứng như trời trồng giữa nhà, lắp bắp:

- Sương! Vậy là má anh đã biết…

Cô nhẹ lắc đầu. Bà Xuân ngờ ngợ:

- B… biết gì?

Thằng con dấm dớ của bà kịp thấy con bé xinh xắn. Hắn quên cả trả lời mẹ câu hỏi rất quay cuồng, mà hướng mắt về phía Sương, thổn thức:

- N… nó đấy hả?

- Ừ…

Hắn bế thốc con bé lên, chân nhảy cẫng, miệng la như một thằng điên:

- Trời ơi trời! Con tôi… con tôi…

LAM TRẦN

10.09.2019

8 giai đoạn của chồng em

Quý bà thử xem cuộc đời của một ông chồng

có đúng như bà vợ này tả không?

Giai đoạn 1: năm 20 - 30 tuổi

Chồng em chẳng thích ăn quà

Ngày nào cũng chỉ về nhà ăn cơm

Cơm nhà rất dẻo rất thơm

Chồng em chỉ thích ăn cơm ở nhà...

Giai đoạn 2: năm 30 - 40 tuổi

Chồng em đã biết ăn quà,

Bây giờ thỉnh thoảng về nhà ăn cơm.

Cơm nhà vẫn dẻo vẫn thơm,

Chồng em giờ biết ăn cơm lẫn quà....

Giai đoạn 3: năm 40 - 50 tuổi

Chồng em chỉ thích ăn quà,

Bây giờ anh chẳng về nhà ăn cơm.

Cơm nhà vẫn dẻo vẫn thơm,

Chồng em giờ đã bỏ cơm ăn quà.

Giai đoạn 4: năm 50- 60 tuổi

Chồng em chẳng thích ăn quà,

Mà giờ cũng chẳng về nhà ăn cơm.

Cơm nhà hết dẻo hết thơm,

Chồng em giờ đã bỏ cơm lẫn quà

Giai đoạn 5: năm 60 - 70 tuổi

Chồng em bỏ cả cơm, quà;

Chỉ ăn được phở, cháo gà mà thôi.

Chê quà, cơm dẻo hôi hôi;

Phở bà hàng xóm kề môi húp liền.

Giai đoạn 6: Năm 70 - 80 tuổi

Chồng em tóc bạc như tiên,

Phở ăn chẳng được, có tiền như không.

Ngồi thèm nhìn ngó các ông,

Trẻ trung húp phở mà lòng xôn xao.

Giai đoạn 7: năm 80 - 90 tuổi

Chồng em da hết hồng hào,

Quà, cơm, phở, cháo gà sao chẳng thèm.

Không còn có chút tòm tem,

Ngó qua liếc lại nhìn xem đất trời

Giai đoạn 8: năm 90 - 100 tuổi

Chồng em chán sống trên đời,

Muốn đi chầu Chúa, Phật, Trời, Diêm Vương.

Nhưng nghĩ cũng tội cũng thương

Chúa, Trời, Phật, Diêm vương chê rồi!

Tu Vu - Đỗ Thiên Thư st.


Phụ bản IV

10 điều tuyệt vời của cuộc sống,

mất đi rồi khó lấy lại được

Cuộc sống có rất nhiều điều tuyệt vời, nhưng thường khi chúng ta đang có nó trong tay sẽ không nhận ra nó quý giá như thế nào, cho đến một ngày nhìn lại, chúng ta mới biết rằng đó mới là một trải nghiệm tuyệt vời làm sao.

Nhiều khi, tiền có thể từ từ kiếm được, nhưng nhiều thứ mất đi rồi sẽ không thể nào tìm lại được nữa, thứ sót lại chỉ còn là sự ngóng nhìn từ phía sau. Hôm nay chúng ta hãy cùng xem xem trong 10 điều tuyệt vời của cuộc sống này, thì bạn đã đánh mất đi bao nhiêu rồi?

Điều thứ nhất: Sự yên tâm

Lúc nhỏ, sống trong ngôi nhà cũ, tối ngủ có thể không cần đóng cửa, mà cũng không phải lo lắng sẽ bị mất đồ. Mặc dù không có máy điều hòa, nhưng trời rất mát mẻ và yên tĩnh, không khí cũng trong lành nữa...

Bây giờ, thì sống trong một ngôi nhà rộng lớn sáng sủa, rất cao và đẹp đẽ. Tuy nhiên, các cánh cửa ở tầng trên tầng dưới đều phải đóng chặt, những chiếc cửa sổ bảo vệ vây kín chặt khắp ngôi nhà, đôi khi ngay cả chính chúng ta cũng không thể chui vào trong được...

Điều thứ hai: Sự nhiệt tình

Lúc nhỏ, hàng xóm với nhau giống như người một nhà, nhà này cạnh kề, thông với nhà kia. Nhà ai có đồ ăn ngon sẽ bưng một bát sang cho những người hàng xóm nếm thử, nhà ai có việc gì, thì mọi người trong xóm sẽ ra tay giúp đỡ...

Bây giờ, thì chúng ta cùng sống trong một khu, thậm chí là cùng ở chung một tầng, chúng ta gặp nhau hàng ngày, nhưng lại không biết đối phương mang họ gì cả...

Điều thứ ba: Sức khỏe

Lúc nhỏ, trẻ con ở nông thôn thích nhất là được đi ra sông câu cá, hay là vào vườn hái vài quả dưa chuột, ăn ngay trực tiếp, thực phẩm xanh tự nhiên tươi sạch...

Bây giờ, cá trong siêu thị rất to, rau cải được bọc túi rất đẹp, nhưng dù có rửa bao nhiêu lần đi chăng nữa, thì cũng lo lắng rằng chưa rửa sạch nên không dám ăn...

Điều thứ tư: Sự an toàn

Lúc nhỏ, trẻ con luôn tụm ba tụm năm cười đùa trên đường, chúng rượt đuổi đùa giỡn, thỉnh thoảng trên đường cũng có vài chú chó vàng đi qua, rồi nhặt những nhánh cỏ trêu đùa nhau, thật sôi nổi vui tươi.

Bây giờ, xã hội phát triển, đường đi ngày càng rộng hơn, xe cộ qua lại ngày càng nhiều, lúc đi trên đường không thể đuổi bắt đùa giỡn được nữa, bởi vì chỉ lơ là một chút là có thể xảy ra nguy hiểm ngay!

Điều thứ năm: Hồi ức

Lúc nhỏ, không có nhiều tiệm chụp ảnh, rất khó được đi chụp ảnh mỗi năm, mỗi bức ảnh đều phải được rửa ra rồi ép nhựa, sau đó được lưu giữ trong album. Mỗi khi giở ra xem, đầy ắp trong đó đều là những kỷ niệm đã qua!

Bây giờ, mấy năm cũng không đi tiệm chụp ảnh được lấy một lần. Máy ảnh, ipad, điện thoại di động, đi tới đâu là chụp tới đó, selfie (tự chụp), chụp thức ăn, chụp phong cảnh... Nhiều lúc, những bức ảnh ấy đã bị lãng quên ở một góc trong điện thoại, rất ít bức ảnh thực sự đáng để nhớ tới!

Điều thứ sáu: Sự náo nhiệt

Lúc nhỏ, không nhiều gia đình có TV, mỗi khi chiều đến, đều phải bưng bát cơm đến nhà hàng xóm xem ké. Lúc ấy TV chỉ có 2 màu đen trắng, hình ảnh không rõ, người thì rất nhiều, nhưng không hề cảm thấy đông đúc chút nào, mà còn thấy rất náo nhiệt.

Bây giờ thì thứ mà hàng ngày chúng ta không thể rời xa chính là điện thoại di động, mỗi người một cái, đi đến đâu cũng có thể phát TV đến đó. Mặc dù mọi người đang tụ tập cùng nhau, nhưng mỗi người đều xem chiếc màn hình của riêng mình.

Điều thứ bảy: Sự thỏa mãn

Lúc nhỏ, quần áo của trẻ con chỉ có vài màu sắc đơn giản, chẳng những thế chúng ta còn phải luôn mặc lại quần áo cũ của anh chị để lại nữa, nhưng chúng ta đều xem mỗi chiếc là một bảo vật, vô cùng thích thú và thỏa mãn!

Quần áo ngày nay thì đa dạng màu sắc, kiểu dáng, trong tủ quần áo đầy ắp mấy hàng móc treo đồ, nhưng vẫn cảm thấy rằng quần áo của mình vẫn chưa đẹp, vẫn không đủ để mặc...

Điều thứ tám: Sự đơn giản

Lúc nhỏ, đồ chơi của con nít không có nhiều thứ, chỉ có bi ve, bao cát, dây chun, bánh mì giấy... Tuy không đa dạng, nhưng chúng ta có thể suốt ngày chơi mãi một trò mà rất hạnh phúc.

Bây giờ, trong điện thoại của ai mà không cài sẵn dăm ba trò chơi? Gia đình của ai mà không có những món đồ chơi cao cấp? Cho dù công nghệ đã mang lại một cuộc sống giải trí phong phú hơn, nhưng sự thân thiết vô lo thời còn là những đứa trẻ đã không còn nữa rồi.

Điều thứ chín: Tự do

Lúc nhỏ, trong ký ức chỉ nhớ có một rạp phim, mà người bình thường sẽ không thể đi, và cũng không có nhiều bộ phim để xem! Đôi khi ở làng chiếu các bộ phim ngoài trời, chúng ta sẽ hẹn các bạn nhỏ cùng đi, trèo lên cây, ngồi trên mái nhà, hay là ngồi trên trụ ăng-ten, vừa xem phim vừa ăn hạt dưa mang từ nhà đến, vui vẻ vô cùng!

Bây giờ, ngày càng có nhiều rạp chiếu phim, nào là hiệu ứng đặc biệt 3D, nào là phim bom tấn Hollywood có thể tha hồ chọn. Vào xem là phải xếp hàng để mua vé, chọn chỗ ngồi trực tuyến, vào cửa còn cần kiểm vé, không được phép mang theo đồ uống, không ai biết ai đang ngồi cạnh mình! Tóm lại, ai nấy xem phim, xem xong thì ai về nhà nấy!

Điều thứ mười: Chân tình

Ông nội cưới bà nội, chỉ dùng có nửa đấu gạo; ba cưới mẹ, chỉ dùng có nửa con bò. Hồi ấy kết hôn, nhận được giấy chứng nhận kết hôn xong, mời một hai bàn tiệc là hoàn chỉnh mọi chuyện, không có nhiều của hồi môn, mà kết hôn cũng rất vui vẻ, sống một cuộc sống mỗi ngày thật giản dị chân thực.

Bây giờ kết hôn mà không có nhà, xe, tiền thì sẽ cảm thấy không hạnh phúc!

Khi chúng ta dần trưởng thành, có một số thứ cũng đã mất đi, và sẽ không thể tìm lại nó được nữa...

Cuộc sống có rất nhiều hương vị, mà chúng ta luôn cần phải đi đến một độ tuổi nào đó, thì mới biết cách cảm nhận sâu sắc. Tuy nhiên, khi bạn bắt đầu hiểu ra thì mọi thứ cũng đều đã trôi xa.

Vì vậy, hãy trân trọng cuộc sống hiện tại, bởi vì có lẽ trong giây tiếp theo, giây phút mà bây giờ bạn đang trải qua đã trở thành một điều của quá khứ. Đừng cứ mãi để mất đi rồi mới cảm thấy hối tiếc vì mình đã không biết trân trọng, rất nhiều thứ khi mất đi rồi chúng ta không cách nào có thể tìm thấy nó nữa!

KIM SƠN st.

CÓ TÌNH THƯƠNG CÓ TẤT CẢ

Một người phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà thì nhìn thấy có 3 cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên phiến đá ở trước sân nhà. Bà không quen biết họ, nhưng với con người tốt bụng, bà lên tiếng nói: “Tôi không quen biết các cụ nhưng chắc là các cụ đang đói bụng lắm, vậy xin mời các cụ vào nhà tôi dùng một chút gì cho ấm bụng nhé...”

Một cụ cất tiếng ái ngại hỏi:

- Ông chủ có ở nhà không thưa bà....

Người phụ nữ trả lời:

- Dạ thưa không, nhà tôi đi làm chưa về.

- Thế thì chúng tôi không thể vào nhà của bà bây giờ được, bà ạ.

Đến chiều khi người chồng đi làm về, người phụ nữ kể lại chuyện cho chồng nghe. Nghe xong người chồng bảo vợ:

- Vậy thì bây giờ em hãy ra mời ba cụ ông vào, nói với mấy cụ rằng anh đã về và muốn mời họ vào.

Người vợ làm theo ý của chồng, bà bước ra sân mời cả ba cụ cùng vào.

Họ đồng thanh đáp:

- Rất tiếc thưa bà, cả ba chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được.

Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao lại thế thưa các cụ....

Một cụ già bèn đứng dậy từ tốn giải thích:

- Cụ ông này tên là Giàu Sang, còn kia là cụ ông Thành Đạt, và còn lão già đây là Tình Thương. Bây giờ bà hãy vào nhà hỏi ông nhà xem sẽ mời ai trong ba lão chúng tôi vào nhà trước nhé. Người phụ nữ đi vào nhà và kể lại sự việc cho chồng.

Người chồng vui mừng nói:

- Ồ vậy thì tuyệt quá! Vậy thì tại sao chúng ta không mời cụ ông Giàu Sang vào trước. Cụ là điềm phước rồi đây, sẽ cho chúng ta nhiều tiền bạc của cải sung túc.

Nhưng người vợ lại không đồng ý:

- Nếu vậy thì tại sao chúng ta lại không mời cụ Thành Đạt vào trước chứ... Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể.

Hai vợ chồng cứ tranh cãi một lúc mà vẫn chưa đi đến quyết định.

Cô con gái nãy giờ đứng nghe yên lặng ở góc phòng bỗng lên tiếng nhỏ nhẹ:

- Ba mẹ ạ, tại sao chúng ta không thử mời ông già Tình Thương vào nhà trước đi. Nhà mình khi ấy sẽ tràn ngập tình thương yêu ấm áp, và ông già sẽ cho gia đình chúng ta thật nhiều hạnh phúc.

- Có lẽ con gái mình nói đúng.

Người chồng suy nghĩ rồi bảo vợ:

- Vậy thì em hãy mau ra ngoài mời cụ Tình Thương vào trước đi vậy.

Người phụ nữ ra ngoài và cất tiếng mời:

- Gia đình chúng tôi xin hân hạnh mời cụ Tình Thương làm vị khách mời đầu tiên vào với gia đình của chúng tôi.

Cụ già Tình Thương từ tốn đứng dậy và chầm chậm bước vào nhà. Nhưng hai cụ già kia cũng từ từ đứng dậy và bước theo cụ già Tình Thương...

Rất đỗi ngạc nhiên, người phụ nữ bước lại gần hai cụ Giàu Sang và Thành Đạt hỏi:

- Tại sao hai cụ cũng cùng vào theo... Các cụ đã chẳng nói là cả ba cụ không thể vào nhà cùng một lúc sao.

Khi ấy cả hai cụ cùng trả lời:

- Nếu bà mời cụ Giàu Sang hay Thành Đạt tôi đây, thì chỉ một trong hai chúng tôi vào nhà được thôi, nhưng vì bà mời cụ ông Tình Thương, nên cả hai chúng tôi cũng sẽ vào theo. Bởi vì ở đâu có Tình Thương thì ở đó sẽ có Giàu Sang và Thành Đạt đó bà ạ.

Hoàng Chúc st.

HẠNH PHÚC

Hạnh phúc là sáng có việc để đi làm, chiều có nơi để về, và nơi ấy có người yêu thương mình ngóng đợi.

Hạnh phúc là tối có bữa cơm nóng để ăn, có tiếng cười rộn rã vang lên trong căn nhà nhỏ

Người ta kiếm tiền để đảm bảo cho gia đình mình đầm ấm, Làm việc đến mức mà nhà vắng vẻ lạnh tanh, vợ chồng lục đục, con cái lêu lổng... thì lúc đó, ta biết mình nên dừng lại để giữ cái nào quan trọng.

Hạnh phúc không chỉ ở đích đến, mà còn nằm ở đường đi.

Nếu đi đường quá khổ sở mà đích đến cũng chẳng đạt được thì cái việc đi đó chỉ là vô nghĩa.

Chúng ta, đừng để đến già mới nhận ra: Mình đã lạc đường.

Phùng Chí Tâm st.

XE DÊ

Các từ như long, dê, hoàng, ngự… là ngôn ngữ thường dùng ở chốn cung đình, dùng để chỉ những gì thuộc về vua. Những từ ấy đã đi vào dân gian trở thành cách nói thông tục rất tự nhiên. Ở cố đô Huế, đã có thời báo Nam Phong dám giở trò “chơi khăm” gọi việc vua đi phố là “ngự phố”, vua bị rơi xuống hố là “ngự hố”.

Cùng với cách nói đó, đêm nào vua đến hậu cung “tạm trú” với phi tần cung nữ được gọi là “ngự dâm”. Ai dám bảo chữ dâm là bậy nào!

Trong chuyến “đi đêm” xe dê là phương tiện giao thông vận tải từ cung vua đến tam cung lục viện để người đẹp được vinh dự bệ kiến mặt trời.

Trên chín bệ mặt trời gang tấc,

Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu

Phải duyên hương lửa cùng nhau

Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào

(Cung oán ngâm khúc)

Theo sách Tấn thư, Tấn Võ đế tuyển nhiều phi tần cung nữ, vua đã dùng xe dê có gắn ngọc quý để chiếu sáng do dê đực kéo đến phòng người đẹp chốn cung cấm để “mua vui vài trống canh”. Nếu còn thì giờ và sức khỏe cho phép thì còn tiếp tục cuộc hành trình thám hiểm cung trăng. Các chị hằng đang mở cửa, thường trực đón, khách khỏi “điện thoại” báo giờ xin gặp. Phi tần cung nữ mở rộng cách tiếp vua.

Nói theo lối nôm na, phi tần cung nữ là vợ vua. Vợ chính của vua là hoàng hậu. Nhà Nguyễn có lệ không lập hoàng hậu vì sợ nạn tiếm quyền đã xảy ra ở các triều đại về trước. Hoàng quý phi đứng đầu trong danh sách cửu giai: nhất giai phi, nhị giai phi, tam giai tân, tứ giai tân, ngữ giai tiếp dư, lục giai tiếp dư, thất giai thục nhân, bát giai mỹ nhân, và cửu giai tài nhân. Sau này đến đời vua Bảo Đại chịu ảnh hưởng của Tây học, xé rào phá lệ lập hoàng hậu: Nam Phương hoàng hậu.

Chỉ riêng lo phục vụ đều đặn 9 bà không, vua đã thấm mệt chiến trường, ấy là chưa nói đến chuyện giảm thọ. Lòng tham của lạ không cùng, vua đã chấm rồi, lại có máu thích chấm thêm trong hàng con gái đẹp của các quan đại thần và con nhà thường dân có nhan sắc xuất chúng.

Để dung nạp lượng người đẹp xin vào cung vịn thuyền rồng ngày càng đông, vua sẵn sàng xây và mở rộng tam cung lục viện, mặc dù chưa có chỉ tiêu và chưa lập hội đồng duyệt thiết kế xây dựng.

Tam cung là các cung: Diên Thọ, Trường Sanh, Khôn Thái. Lục viện gồm có: Thuận Huy, Đoan Thuận, Đoan Hòa, Đoan Huy, Đoan Tường và Đoan Trang. Tất cả đều là lầu son gác tía, nhà ngang cửa dọc theo lối kiến trúc chữ Vương.

Các bà hoàng tiên triều sống các ngày còn lại ở cung Diên Thọ. Còn lại 8 cung, viện vua đương tại ngôi đi lại tự do. Ngoại trừ các quan thái giám, thì không một người đàn ông nào có quyền đặt chân đến vùng trọng cấm, vương quốc này.

Theo chính sử và Lễ tiết, không phải đêm nào vua muốn đến cung nào, phòng nào cũng được. Quan thái giám giữ phần việc kiểm soát: trao cho nhà vua cái thẻ ngà, mỗi đêm, đêm ấy vua phải đến với vị phi tần có tên trong danh mục. Đó là theo phạm trù lý thuyết! Giữa thực tế và lý thuyết có khoảng cách khá dài dẫu cho quan thái giám có tài đến đâu đi nữa cũng bất lực. Tương truyền những vị hoàng đế uy quyền đầy mình đã xé rào và tha hồ mà tự biên tư điễn “đầu tư sản xuất” theo ý mình.

Lượng phi tần cung nữ thì nhiều mà của quý lại độc hiếm, các bà phải tìm cách câu độ dê. Chiều hôm, ở cửa phòng đã để sẵn lá dâu hoặc lá sầu đâu có tẩm chút muối. Dê thích ăn món khoái khẩu này, sẽ dừng lại trước phòng của cung nữ:

Ấp yêu gối phụng dường tê tái

Chờ đợi “xe dê” huống thẫn thờ.

(khuyết danh)

Quan thái giám đã bị trời đất cướp quyền, đành chỉ biết ngắm nhìn vua nhập cung mà không nén được lòng. Quan đành mở sổ ghi chép ngày giờ, số phòng, số thẻ ngà để khỏi xảy ra tình trạng “lộn sòng” về sau. Tương truyền có chuyện các phi tần cung nữ đã tìm cách hối lộ quan thái giám để quan cho xe dê hỏng hóc kỹ thuật để dừng lại phòng cung nữ không theo dự tính đã ghi trên thẻ ngà. Té ra nghề nào, thời nào cũng có chuyện “móc ngoặc”, kể cả dịch vụ “ngự dâm”.

Chính vì hành động theo lối vô triều đình, vô tổ chức ấy mà vua Văn Vương nhà Chu có đến 99 người con trai, một con nuôi là Lôi Chấn Tử, cộng 100 con trai, chưa kể gái vì chưa nắm được con số chính xác. Nếu vua Văn Vương không bị vua Trụ bắt giam mười mấy năm thì sẽ còn thêm nhiều đứa con ra đời nữa.

Ở nước ta, chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đã có đến 140 người con, dù mới 51 tuổi đã chết. Vua Gia Long (1762-1819) thọ chỉ 58 tuổi có đến 13 hoàng tử và 18 hoàng nữ, vua Minh Mạng (1791-1840) thọ 50 tuổi mà có đến 78 hoàng nam và 64 hoàng nữ, vua Thiệu Trị thọ 41 tuổi mà có đến 29 hoàng tử và 35 hoàng nữ.

Tất cả là tại cái xe dê?

BÙI ĐẸP st.

THAY ĐỔI LỐI SỐNG VÀ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG

tiến tới “SỐNG KHÔNG BỆNH”

PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ TOÀN DIỆN BỆNH MẠN TÍNH

BẰNG KẾT HỢP Y HỌC CỔ TRUYỀN - Y HỌC HIỆN ĐẠI

(LIỆU PHÁP 4 T)

ThS.BS. Quan Vân Hùng

I. - Đặt vấn đề:

“Sinh - lão - bệnh - tử” ai cũng trải qua. Sinh - lão - tử không thể né tránh được, nhưng BỆNH thì sao? Có thể tránh được, nhất là bệnh mạn tính. Chúng ta đang sống trong thời văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ, công nghiệp phát triển. Mọi người chắc chắn đã được hưởng thụ các lợi ích tiện nghi của thời hiện đại, cuộc sống ngày càng phong phú, đầy khẩn trương (stress), ăn nhiều thịt, thực phẩm tinh chế (gạo trắng…), thức ăn công nghiệp (đồ hộp, có nhiều hóa chất bảo quản, tạo hương vị) ngày càng được ưa chuộng, các hoạt động càng ngày càng tự động hóa khiến người ta ít vận động…, nhưng theo học thuyết âm - dương “mọi sự vật hiện tượng đều có 2 mặt đối lập” thì thời hiện đại cũng xuất hiện lắm điều bất lợi, đặc biệt là vấn đề sức khỏe mà cụ thể các bệnh mạn tính ngày càng nhiều, biến hóa, đa dạng, phức tạp. Điều trị các bệnh mạn tính này, nếu chỉ dùng thuốc (thuốc Tây hay Đông y) thì chỉ mang lại kết quả tạm thời, không dứt điểm, nguy cơ tái phát cao, phải dùng thuốc suốt đời, ngoài ra bệnh nhân còn phải chịu đựng các tác dụng phụ của thuốc nhất là tân dược, thế là bệnh nhân vừa dùng thuốc trị bệnh sẵn có lại phải buộc lòng uống thêm thuốc để trị các bệnh do chính thuốc gây ra, số lượng thuốc trên mỗi toa ngày càng nhiều. Do đó muốn phòng ngừa và lỡ mắc bệnh cần điều trị cho dứt không bị tái phát (không phải dùng thuốc suốt đời) → tiến tới “Sống không bệnh” thì khi điều trị bệnh mạn tính để cho có kết quả bền vững, ngoài liệu pháp dùng thuốc (hay không dùng thuốc: châm cứu…) còn phải hướng dẫn bệnh nhân kiên trì thực hiện 2 sự thay đổi: đó là thay đổi lối sống và thay đổi chế độ ăn uống:

* Thay đổi lối sống: giảm stress, tăng vận đông thể lực.

* Thay đổi chế độ ăn: theo chế độ ăn uống quân bình âm - dương (axit-kiềm), trong đó thay dần gạo trắng bằng gạo nứt.

Cùng với thuốc (Tây hay Đông y) kết hợp với 2 thay đổi trên, cấu tạo nên 1 phương pháp phòng bệnh và điều trị toàn diện cho các bệnh mạn tính, đó là liệu pháp “4T”:

• T1 - Tinh thần (tâm lý) để giảm stress.

• T2 - Thực phẩm quân bình âm - dương (axit-kiềm).

• T3 - Tập dưỡng sinh.

• T4 - Thuốc (Đông - Tây y).

II - Quan điểm y học cổ truyền về bệnh:

Theo Y học cổ truyền (YHCT) nguyên nhân bệnh gồm hai loại:

- Ngoại nhân (nguyên nhân bên ngoài): do Tà khí xâm nhập, là các yếu tố gây bệnh như lục dâm (thời tiết như gió - nóng - lạnh - ướt - khô - nhiệt quá), tia nắng mặt trời, vi trùng, virus, hóa chất, phóng xạ…, ăn uống nhiễm độc chất (thuốc trừ sâu, chất phụ gia, chất bảo quản, chất kích thích…)

- Nội nhân (nguyên nhân bên trong): Chính khí suy, sức khỏe suy kém, suy giảm hệ miễn dịch. Do “thất tình” là các rối loạn tình chí - cảm xúc - tâm lý thái quá, chủ yếu là lo, buồn, giận, sợ thái quá - kéo dài liên tục - lại phải đè nén - cầm nín (nuốt giận, dấu buồn - lo - sợ không dám thổ lộ như khóc lóc rên rỉ - run rẩy).

Nội nhân là chính, vì chỉ khi hệ miễn dịch suy kém thì các yếu tố gây bệnh (ngoại nhân - tà khí) mới có thể xâm nhập tấn công cơ thể và gây bệnh (Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư). Chính khí suy (sức khỏe kém) làm suy giảm năng lực tự chữa lành của con người, chính năng lực tự chữa lành là cơ chế của tiến tới “sống không bệnh”.

So sánh với quan điểm y học hiện đại, chính tình trạng stress liên tục - thái quá - phải kiềm chế dồn nén (do các stressors) làm tinh thần bất an, căng thẳng, luôn luôn lo - buồn - giận - sợ, stressors làm gia tăng bài tiết Cathecholamine, Glucocorticoid (Cortisol) làm suy giảm miễn dịch, chính tình trạng suy giảm miễn dịch là điều kiện làm xuất hiện phát triển bệnh tật.

Như vậy, YHCT phòng-chống bệnh, có 2 cách:

1. Ngăn chận các ngoại nhân - tà khí: rất khó, bị động (không thể nín thở để khỏi hít khí ô nhiễm, khói thuốc lá, không thể nhịn ăn để khỏi nhiễm độc chất từ thức ăn, không ra ngoài nắng…) → chỉ có thể hạn chế càng nhiều càng tốt.

2. Ngăn ngừa nội nhân: “hạn chế thất tình” chính là Duy trì khả năng phòng vệ cơ thể (hệ miễn dịch) là cơ bản nhất, chủ động nhất, nhiều ít do quyết tâm cá nhân, cơ chế miễn dịch tốt sẽ chống trả thành công các yếu tố gây bệnh để phòng - trị bệnh.

YHCT tác động chống suy giảm miễn dịch bằng liệu pháp “4 T”:

T1: Tinh thần - Tâm lý: Duy trì cuộc sống tinh thần: bình an, thanh thản (chống - giảm stress)

T2: Thực phẩm: Chế độ ăn uống quân bình âm dương (axit-kiềm)

T3: Tập dưỡng sinh - Rèn luyện thân thể: thư giãn, tự xoa bóp, tập thở sâu, tập vận động toàn thân (thái cực quyền, yoga, đi bộ…)

T4: Thuốc: Đông - Tây dược hay liệu pháp không dùng thuốc (châm cứu - xoa bóp day ấn huyệt...)

III - Phương pháp:

A - NGUYÊN TẮC:

1- THEO “HOÀNG ĐẾ NỘI KINH” (y văn Đông y đã có từ 4000 năm)

Điềm đạm hư vô

Chân khí tùng chi

Tinh thần nội thủ

Bệnh an tùng lai

Nghĩa là: giữ cho điềm đạm - yên bình - thanh thản, khí huyết lưu thông, tinh thần bên trong vững vàng, bệnh lấy đâu mà ra. Bệnh gì cũng không có kể cả bệnh ung thư!!!

2- THEO LỜI DẠY CỦA Y TỔ YHCT “TUỆ TĨNH”:

“Bế tinh dưỡng khí tồn thần

Thanh tâm quả dục thủ chân luyện hình”

Nghĩa là: muốn bảo vệ chính khí (sức khỏe, hệ miễn dịch) cần phải giữ gìn tinh khí - nuôi dưỡng sức lực, ổn định thần kinh, bằng các biện pháp: Giữ trong lòng - nội tâm lúc nào cũng bình an (thanh tâm), hạn chế tham muốn (quả dục), không làm gì quá sức (thủ chân), tập luyện thể dục - thể thao (luyện hình)

B - CỤ THỂ

1. T1: Tạo một lối sống - tinh thần luôn bình an (Thanh tâm): tiến tới 1 lối sống “3 giảm - 1 không” → giảm lo, giảm buồn, giảm giận, không sợ. Trong cuộc sống hằng ngày nhất là cuộc sống văn minh hiện nay đầy khẩn trương, phức tạp, phong phú, thúc đẩy người ta phải lo nhiều (để tìm danh lợi - uy quyền…), từ lo nhiều → phát sinh buồn, giận, sợ.

(Cần phân biệt 2 loại lo (lối sống): lo vị kỷ và lo vị tha.

* Lo vị kỷ (lối sống vị kỷ): chỉ lo cho bản thân mình - danh lợi, chức tước, quyền lực… (thậm chí có thể gây hại kẻ khác), sẽ bị nhiều stress → sinh ra nhiều hậu quả nguy hiểm là lo buồn, tức giận, lo sợ.

* Lo vị tha (lối sống vị tha): lo cho người khác, cho tập thể xã hội, như thầy thuốc hết lòng lo cho bệnh nhân vô điều kiện vô vị lợi, thì rất ít nguy cơ gặp stress → phát sinh buồn, giận, sợ).

Xét về khía cạnh y khoa thì: còn sống thì còn lo nghĩ, vấn đề là lo cho ai?

* Lo “lành tính” chính là lo vị tha, không hạn chế, nhưng cũng không nên quá sức.

* Lo “ác tính” chính là lo vị kỷ, đầy nguy cơ sinh giận, buồn, sợ.

Theo YHCT:

Lo hại bộ máy tiêu hóa (tư thương tì),

Buồn hại bộ máy hô hấp (bi thương phế),

Giận hại bộ máy vận động (nội thương can),

Sợ hại bộ máy sinh dục, tuyến thượng thận, thận, xương tủy (khủng thương thận).Thường xuyên lo sợ là nguy hiểm nhất vì gây suy giảm miễn dịch.

Khi tiến đến lối sống “3 giảm 1 không”, có phải là ta trở nên vô cảm, không còn cảm xúc buồn - giận - sợ? Chính xác là làm cách nào tránh các nguyên nhân làm cho mình phải lo - buồn - giận - sợ. Tục ngữ có câu: “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”. Vậy cây muốn yên thì chỉ còn cách đừng làm gì tạo gió, thậm chí gây bão. Vậy:

Muốn tiến lối sống 3 giảm-1 không cần phải:

* Đơn giản hóa lối sống, giảm các nhu cầu (quả dục).

* Trong mối quan hệ giữa người với người: lối sống vị tha là chính, học tập và thực hiện tối đa các giá trị cuộc sống (living values) → Tạo quan hệ - ứng xử tốt giữa người với người, đó là quan hệ 4T: Tôn trọng, Tha thứ (khoan dung), Tương trợ, Thân thương… Thực hiện quan hệ 4T (luôn tôn trọng người khác, hay tha thứ khoan dung, thường xuyên giúp đỡ người khác, thương yêu lẫn nhau) → ta bớt lo - buồn - giận - sợ (ngừa stress).

Còn nếu stress đã xảy ra thì hóa giải stress ngay bằng Tư Duy Tích Cực (Positive thinking). Khi gặp thất bại hay sự việc không vui, không hài lòng - làm ta căng thẳng lo buồn giận sợ, thì lập tức phải suy nghĩ - tư duy tìm các khía cạnh có lợi, các mặt tích cực, cái lỗi về phía mình,… Tục ngữ ca dao cũng có nhiều câu mang ý nghĩa tư duy tích cực như “Thất bại là mẹ thành công”, “Sau cơn mưa trời lại sáng”, “Tiên trách kỷ hậu trách nhân”, “Suy bụng ta ra bụng người”, “Trong cái rủi có cái may” (truyện Tái Ông mất ngựa), “Gieo nhân nào được quả ấy”, “Gieo gió gặt bão”…

Cuộc sống con người, từ thời văn minh hiện đại đã trở nên phong phú, phức tạp, nhu cầu ngày càng nhiều, tạo nên nhiều tiện nghi và lạc thú nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bệnh tật, nhất là bệnh mạn tính khó điều trị (đái tháo đường, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, béo phì,…). Một trong những nguyên do là từ stress thái quá, kéo dài liên tục. Để ngừa - giảm stress, cũng có lúc cần thay đổi lối sống: đó là đơn giản hóa cuộc sống, giảm bớt các nhu cầu không thật sự cấp thiết và nhất là chú ý mối quan hệ ứng xử trên nền tảng vị tha, theo nguyên tắc 4T: Tôn Trọng - Tương Trợ - Tha Thứ - Thân Thương. Nhờ thay đổi lối sống ta ít bị stress xấu - độc hại, ít gặp “bão”, tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn còn gặp stress thì phải hóa giải ngay, không để kéo dài trạng thái tâm lý “lo - buồn - giận - sợ”. Bằng cách nào? Bằng tư duy tích cực. Tư duy tích cực là gì? Thông thường, do gặp stress ta “lo - buồn - giận - sợ” và các trạng thái cảm xúc này sẽ thể hiện ra hành động (khóc lóc, chảy nước mắt khi buồn, la hét đỏ mặt, đập phá… khi giận, thừ người, không còn thiết ăn uống khi lo, “sợ té đái”,…), nhưng 4 trạng thái tâm lý lo - buồn - giận - sợ này có xuất hiện nhiều, ít, thậm chí rất ngắn là tùy cách suy nghĩ, đánh giá của ta, dán nhãn, định danh về nguyên do gây stress (stressor), vì tư duy chỉ đạo cảm xúc, cảm xúc chỉ đạo hành động.

Thí dụ:

Chẳng may thi rớt, nếu là tư duy tiêu cực, ta nghĩ rằng đây là một biến cố xấu, không may,…, suy nghĩ này làm ta lo lắng (cuộc đời ta rồi sẽ ra sao?), làm ta buồn vì thua sút bạn bè, làm ta giận (giận mình sao dốt nát, giận bạn bè không giúp đỡ), làm ta sợ (sợ cha mẹ buồn, đánh đập ta), và thể hiện ra hành động là ta bỏ ăn, khóc lóc suốt ngày, chạy trốn cha mẹ, bạn bè… Hậu quả cuối cùng là sức khỏe suy giảm, làm mồi cho bệnh tật tấn công. Tư duy tiêu cực là thế, còn nếu ta suy nghĩ theo hướng ngược lại (tư duy tích cực), ta nghĩ rằng thi rớt chưa chắc là điều hoàn toàn xấu, dở, rủi ro, trong cái rủi có cái may mà, vì nếu cứ tiếp tục suy nghĩ tiêu cực (sẽ sinh ra đủ thứ hậu quả bất lợi) thì vẫn rớt, không hội đồng thi nào thấy mình lo - buồn - giận - sợ mà thương tình chấm lại cho đậu, vì nếu suy nghĩ tích cực cho đây là dịp may để rút kinh nghiệm, phát hiện khuyết điểm của mình mà trước đây chủ quan chưa nhận ra, ta điều chỉnh lại phương pháp học tập, gần gũi thầy cô, bạn bè hơn thì chất lượng học tập sẽ cao hơn, bản lĩnh vững chắc hơn, và kết quả kỳ thi tới không thể nào rớt, thậm chí đậu cao hơn, vì “thất bại là mẹ thành công”, vì “sau cơn mưa trời lại sáng” (mưa dù kéo dài cách mấy cũng phải chấm dứt để trời sáng lại), vì “tiên trách kỷ hậu trách nhân”. Nếu suy nghĩ tích cực như thế ta chấm dứt nhanh chóng trạng thái “lo - buồn - giận - sợ” và chắc chắn không còn khóc nữa, không giận bạn nữa, không trốn chạy cha mẹ, không bỏ ăn,… Ta lập lại kế hoạch học tập mới, chăm chỉ,… cha mẹ, bạn bè sẽ khen ta, yêu thương ta vì đã dũng cảm tiến lên.

Còn nếu đọc các sách xưa về các bài học của tư duy tích cực thì truyện “Tái Ông mất ngựa” là một thí dụ rõ nét. Truyện kể rằng có một cụ già tên gọi Tái Ông, cụ có một cong ngựa đẹp, khỏe, là một vật nuôi thân thiết, hàng ngày cụ chăm sóc ngựa rất chu đáo, ngựa cũng hết sức thương mến chủ. Vậy mà một sáng nọ thức giấc, cụ ra chuồng ngựa thì con ngựa đã biến mất, đi tìm khắp nơi cũng không thấy. Hàng xóm nghe tin kéo qua để chia buồn cho biến cố rủi ro - bất hạnh này. Do đó khi gặp cụ ông, họ tưởng rằng ông cụ đang lo (đi qua đi lại, miệng lẩm bẩm gì đó), tưởng rằng cụ đang buồn (khóc tỉ tê, chảy nước mắt nước mũi), tưởng rằng cụ đang giận (vung tay đấm xuống bàn, miệng la hét “thằng khốn nào dám lấy ngựa của ông”…), tưởng rằng cụ đang sợ (mặt thất thần, than thở “ôi nó lấy ngựa của ta coi chừng đêm nay nó lấy cả mạng mình”). Vì lo - buồn - giận - sợ do mất con ngựa, Tái Ông sẽ bỏ ăn, suốt ngày thẫn thờ ngồi yên không vận động, đêm sẽ không ngủ được, nếu kéo dài sức khỏe sẽ suy giảm, bệnh tật sẽ xuất hiện. Nhưng thực ra hàng xóm thấy Tái Ông vẫn điềm tĩnh tiếp họ và còn nói “Biết đâu đấy là cái may đấy”. Với tư duy tích cực Tái Ông nghĩ mất ngựa là điều may, điều tốt, do đó lo làm chi! Tại sao phải buồn! Không việc gì mà giận, và tất nhiên không có gì đáng sợ (vì đây là điều may, điều tốt mà). Hàng xóm nghĩ rằng Tái Ông già lú lẫn, kéo nhau về không còn chia buồn nữa (vì thấy ông có buồn đâu mà chia!). Ba ngày sau, con ngựa trở về dẫn theo một chú ngựa con khỏe mạnh, rất đẹp, hàng xóm nghe tin lại kéo nhau qua để chúc mừng. Đến gặp cụ, tưởng rằng Tái Ông đang nhảy nhót vui mừng, mặt mày hớn hở, nhưng thấy cụ vẫn điềm tĩnh, lại còn nói “Biết đâu đây là cái rủi đấy”. Hàng xóm sững sờ nghĩ rằng ông cụ càng ngày càng lú lẫn, giận dữ bỏ về. Tái Ông có một đứa con trai, thấy có chú ngựa đẹp hàng ngày chơi đàu và leo lên cỡi. Một ngày kia đang cỡi ngựa bỗng té gãy chân, hàng xóm nghe tin lại kéo nhau qua chia buồn, tưởng rằng cụ đang lo - buồn - giận - sợ nhưng thấy cụ vẫn điềm tĩnh chăm sóc cho con trai, miệng lại còn nói “Biết đâu đây là cái may đấy”, một lần nữa hàng xóm lộ vẻ bất bình trước thái độ kỳ quặc của Tái Ông vì đối với họ đây là chuyện xui xẻo, không tốt (tư duy tiêu cực), kéo nhau bỏ về, thầm nghĩ sẽ không thăm viếng ông già quái dị này nữa. Cuối năm đó, chiến tranh xảy ra, nhà nước tổng động viên kêu lính, con trai Tái Ông nhờ bị gãy chân không phải vào quân đội, nhờ vậy cha con được đoàn tụ suốt đời.

Hãy suy nghĩ bài thơ:

HÃY SỐNG TRONG THẾ GIỚI BIẾT ƠN

(TƯ DUY TÍCH CỰC)

Hãy biết ơn những người khiển trách ta

Vì họ giúp ta tăng trưởng Định Tuệ.

Hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã

Vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ hơn.

Hãy biết ơn những người bỏ rơi ta

Vì họ đã dạy cho ta biết tự lập

Hãy biết ơn những người đánh đập ta

Vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta.

Hãy biết ơn những người lường gạt ta

Vì họ tăng kiến thức cho ta.

Hãy biết ơn những người làm hại ta

Vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta.

Hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được Kiên Định Thành Tựu.

Bị lường gạt ta “lo - buồn - giận - sợ” thì được gì? Tiền danh lợi đã mất, kẻ lường gạt đã trốn mất, chi bằng xem đây là kinh nghiệm bài học đắt giá, suy ngẫm lại cách làm việc, sáng suốt hơn… về sau không ai lường gạt được mình, hơn nữa nhờ tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp qua kinh nghiệm “xương máu”, ta thành công vượt bực, trong lòng “mang ơn” kẻ đã lường gạt mình. Hãy nhớ “không thể thay đổi được hoàn cảnh - con người bên ngoài ta, nhưng có thể thay đổi được tư duy - cảm xúc - hành động của chính mình”.

(còn tiếp)

ThS.BS Quan Vân Hùng

PGĐ Trung tâm y võ - dưỡng sinh

Cô Lê Ái Liên st.

KHÁM BỊNH

Trước 1975 tôi bị bịnh lao phổi, chữa trị ở y tế sinh viên nên được chuyển vô bịnh viện Hồng Bàng tức bịnh viện Phạm Ngọc Thạch ngày nay điều trị. Cứ mỗi tháng tái khám một lần. Đây là lần thứ hai bị lao phổi nên tôi bị phản ứng với thuốc Streptomycine. Chích một tháng thì người tôi vật vờ vật vưỡng, tay bẻ ghi đông xe không được nên phải ngưng thuốc một tuần mới đổi thuốc khác. Tháng 3/1975 tái khám, bác sỹ thực tập phân tích một lát rồi kết luận: nay cho ngưng thuốc. Bác sỹ giáo sư nói tình hình như vầy và thuốc đã đủ thì ngưng được nhưng bịnh nhơn tái phát lần 2 và có phản ứng thuốc… tôi sợ ngưng không bao lâu thì bịnh tái phát. Phải cho uống thêm ba tháng dự phòng, hết thuốc thì ngưng hai tháng sau vô tái khám lại. Tái khám lần 1 tốt. Bác sỹ dặn 3 tháng sau vô tái khám. Lần nầy tới, bảo vệ không cho vô và nói kiểm tra bịnh thì phải lấy số, chụp hình phổi, nếu ngoài kia cho vô thì mới được vô. Kiểm tra phổi, họ chụp hình nhỏ, chỉ vô trong khám ở dạng kiểm tra bịnh thì họ mới chụp khổ lớn như hiện nay. Tôi bỏ luôn.

Nghe nóng, người vật vờ vật vưỡng, tôi đi khám bịnh ở phòng y tế giáo viên. Bác sỹ cho thuốc cảm với 12 viên Terramycine, mỗi ngày uống 2 viên (lượng thuốc có khi tôi nhớ không chính xác). Hết thuốc tôi tái khám, cũng lượng thuốc như trên, không hết, tôi tái khám, cũng lượng thuốc như trên. Không biết uống thuốc lần thứ ba hay thứ tư không hết mà ở nách và những chỗ da mỏng bị sưng và ngứa. Lần nầy tái khám, bác sỹ nói cho thuốc tốt như vậy mà không hết, anh bị ho lao à? Để tôi chuyển xuống viện bài lao. Ở đây, họ chụp hình phổi, thử máu, thử đàm và trả lời không bị bịnh lao. Đưa bác sỹ, bà hỏi: Không phải bịnh lao, vậy anh bịnh gì? Cảm xoàng như vầy không có nghỉ đâu nhé! Tôi chuyển anh qua bịnh viện. Bác sỹ coi hồ sơ xong, ông cho 40 viên Pho-rơ-most Vita C (?) mỗi ngày uống 4 viên. Sáng 2, chiều 2. Sau 10 ngày uống thuốc, tôi hết bịnh. Tôi suy luận rằng tôi bị suy nhược, bác sỹ trị bịnh như y tá, chỉ cho thuốc trụ sinh với thuốc cảm thôi chớ không biết suy luận về căn nguyên của bịnh để điều trị.

Tới thập niên 80, tôi đăng ký bảo hiểm y tế ở bịnh viện lớn N. của thành phố. Đi khám bịnh, tôi gặp bạn tôi là Nguyễn Văn Kỉnh, thuyền trưởng ở công ty lương thực thành phố. Một sáng mùng 7 Tết, Kỉnh đau bụng và tới bịnh viện N. khám. Bác sỹ nói đau ruột dư phải mổ. Kỉnh nói thưa bác sỹ tôi đã cắt ruột dư rồi. Vết thẹo mổ ruột dư đây! Bác sỹ gắt rằng mổ thì nhập viện tôi trị, không thì về, không lôi thôi gì cả. Không được khám trái tuyến, Kỉnh nghĩ rằng mổ phải có hội chẩn nên chấp nhận nhập viện và báo cho gia đình biết. Thế là ông bác sỹ đưa ngay vô phòng mổ, không có hội chẩn gì cả. Mổ xong, Kỉnh tỉnh lại, anh hắn vô thăm, hắn nói để em nghỉ, khỏe rồi em kể cho anh nghe. Đau lòng lắm. Lát sau, Kỉnh hôn mê và không biết một hay hai ngày sau hắn chết. Cắt ruột dư rồi, cũng đau bụng dữ dội là tắc ruột. Phải mổ ngay để giải quyết tắc ruột. Nếu không, 48 giờ sau thì chết. Bác sỹ sao lại dốt đến độ không biết rằng người ta chỉ có một ruột dư thôi, cắt rồi thì không còn cái nào nữa và nó cũng không mọc lại cái ruột dư khác. Khổ quá.

Trường hợp khác, cũng tại bịnh viện lớn N. nầy, chú tôi là Hoàng Minh Phương, là cán bộ tập kết trở về. Vô khám bịnh, ông khai với bác sỹ rằng tôi bị phản ứng nước biển, vô nước biển tôi chịu không nổi đâu. Bác sỹ gắt rằng bịnh nầy phải truyền nước biển. Y tá ghim kim truyền nước biển xong, bác sỹ và y tá bỏ đi. Vài phút sau, ông Phương trợn trắng, báo bác sỹ và đồng thời thím tôi cũng báo cho Phó Giám đốc bịnh viện là bạn của chú tôi. Bác sỹ cạy miệng gãy hết một răng để cứu cấp. Ông Phó Giám đốc bịnh viện cũng tới. Thấy ổn ổng đi. Vị bác sỹ điều trị quay lại sừng sộ với thím tôi rằng tôi lo cứu ổng, bà lại đi thưa tôi, bà làm như vậy à? Cũng may sau đó chú tôi bình phục. Tôi ngán ngẩm ở bịnh viện lớn nầy, một bác sỹ thì dốt quá và một bác sỹ thì vô trách nhiệm nên tôi chuyển bảo hiểm y tế của tôi sang bịnh viện lớn khác.

Tôi sưng nướu răng, vô phòng Nha khoa khám, Nha sỹ giới thiệu tôi tới phòng răng… để làm bộ răng mới. Tôi nói tôi chưa có tiền nên xin Nha sỹ trị giùm cho hết sưng. Nha sỹ nói trị một lần nầy thôi nghe, đừng tới đây nữa. Sau đó tôi tự trị cho mình và nhờ Nha công chỉnh nướu để xài đỡ. Nha sỹ của bịnh viện mà biểu bịnh nhơn đừng tới đây nữa là sai. Chừng nào tôi bị mỏi quai hàm thì nha sỹ biểu làm lại mới đúng.

Bác sỹ ở bịnh viện lớn trong thành phố thì thế nào? Cháu tôi tốt nghiệp bác sỹ y khoa, nó tin ở đậu vào hạng Khá nên tới xin ở các bịnh viện lớn trong thành phố. Có bịnh viện nhận đơn và nói em sẽ được nhận vô làm việc và hỏi: “Em quen với bác sỹ nào trong bịnh viện nầy?” Cháu tôi nói không có quen với ai cả. Ba ngày sau trở lại, hồ sơ bị trả. Sau đó cháu xin việc ở bịnh viện Quận ở nội và cả ngoại thành, không đâu nhận cả. Thời bấy giờ công nhân viên chức phải được cơ quan nhận thì cơ quan chủ quản mới ra quyết định bổ nhiệm. Túng cùng cháu tôi đi làm trình dược viên. Năm bảy năm sau, một lần giới thiệu thuốc ở một trạm y tế, vị bác sỹ hỏi, nó trình bày tự sự. Vị bác sỹ nầy nói vô lý, cô đưa hồ sơ đây tôi xin cho. Tuần sau trở lại, vị bác sỹ nầy đưa quyết định nhận việc và công tác ngay tại trạm y tế đó. Sau vài lần đi công tác hỗn hợp, cháu được bác sỹ ở Y tế dự phòng xin về đó công tác. Đưa phiếu đề nghị lên Sở y tế, Sở bổ ngay về một bịnh viện Quận ở nội thành với lý do vị bác sỹ xin đó hễ xin ai là người đó có năng lực. Khám bịnh vài năm, nó có tiếng là bác sỹ giỏi và được nhận làm việc ngoài giờ tại một bịnh viện tư. Sau đó nó được cử làm Trưởng khoa của bịnh viện. Bị các bác sỹ cũ tại bịnh viện chống đối, nó thấy khó làm việc nên xin nghỉ để làm ở bịnh viện tư luôn để vừa được lương cao và cũng không có vấn đề gì. Vậy bác sỹ ở bịnh viện công và lớn thì thế nào? Bác sỹ mổ ruột dư của bịnh nhơn đã mổ ruột dư rồi mà được công tác ở bịnh viện lớn thì khổ quá!

Những vụ sơ sót có hại cho bịnh nhơn ở mức độ vừa thì tôi không kể đến vì ai cũng có lúc quên. Tôi viết bài nầy để Giám đốc các bịnh viện lớn ngó các bác sỹ của mình. Ai không có khả năng tối thiểu thì không cho phụ trách khám bịnh. Bác sỹ nói với bịnh nhơn khai nhiều quá, muốn uống thuốc gì nói tôi cho. Bác sỹ như vầy có phải bác sỹ quá giỏi không?

Đau ở ngực có phải chỉ có hai nguyên nhân là đau bao tử và nhồi máu cơ tim không? Tôi cho là không phải. Năm 2016 tôi đưa một người bạn bị bất tỉnh từ Nhà văn hóa Thanh Niên Quận 1 tới bịnh viện Sài gòn. Ngồi một lát, tôi nghe đau ngực từ chớn thủy về bên phải. Đau đổ mồ hôi hột. Một lát sau thì hết. Cả năm 2016 tới 2018 không thấy tái phát. Hỏi về những người bị nhồi máu cơ tim mà trị hết, không ai nói triệu chứng trước đó cả. Tôi chỉ nghe trong dân chúng nói rằng bà kia bị tức ngực, một lát té xuống bất tỉnh, chở vô nhà thương thì chết và nhà thương ghi là bị nhồi máu cơ tim. Tôi biết lờ mờ như vậy thôi.

Năm 2019 tôi trị hai bịnh là tim mạch và xương khớp. Tháng thứ hai cũng trị như vậy, được hai tuần thuốc, tôi nghe đau ngực từ chớn thủy lan sang ngực trái. Tôi sợ bị nhồi máu cơ tim nên vô bịnh viện xin khám. Phòng nhận bịnh ghi còn thuốc và biểu gặp bác sỹ trưởng khoa. Vị bác sỹ nầy coi hai toa thuốc cũ, ông khoanh tròn hai thứ thuốc của hai toa rồi nói bác sỹ thứ hai nầy vô ý quá, toa trước đã cho thuốc bao tử rồi mà còn cho nữa. Sau đó tôi cũng được xuống phòng khám bịnh. Bác sỹ phòng khám hỏi, nghe và sau đó cho thuốc. Tháng thứ ba tái khám, hai bác sỹ đều coi lại toa thuốc có khoanh tròn của mình cả. Một vị không cho thuốc bao tử nhưng chỉ hai tuần thuốc thôi. Tái khám, vị bác sỹ nầy cho thuốc ngừa bao tử trở lại. Sau khi uống toa thuốc của bác sỹ sau hơn một tuần, đang ngồi trên xe buýt, tôi nghe đau ngực từ chớn thủy sang ngực trái, tôi lấy một viên Nadecin 10mg ngậm dưới lưỡi. Sắp tới trạm xuống xe, đang đứng, tôi bất tỉnh té lần hai và nhập viện. Sau đó tôi tìm hiểu, tôi bất tỉnh là do tuột áp huyết đột ngột. Thuốc Nadecin 10mg có tác dụng làm giãn nở mạch máu và dai hơn, khó vỡ. Nhưng, nó có tác dụng phụ và làm tuột áp huyết. Sau khi nằm viện, tôi thấy tôi không bị nhồi máu cơ tim. Như vậy, tôi bị đau bao tử và dùng Nadecin sai nên bị bất tỉnh. May mà tôi không chết. Thuốc để ngừa bịnh bao tử có nhiều hiệu, tôi không biết hết. Nhưng có phải sau khi bị phê bình, vị bác sỹ bị phê bình không cho thuốc hỗ trợ bao tử nữa. Sự giảm thuốc nầy đưa tôi tới có vấn đề về bao tử mà tôi lầm là có triệu chứng nhồi máu cơ tim nên sanh ra cớ sự?

Đọc bài viết: “Viêm dạ dày: không nên ngộ nhận” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 13-6-2019 của BSCK II Trần Ngọc Lưu Phương, bác sỹ nói viêm dạ dày là do nhiễm vi trùng Helicobacter Pylori và các yếu tố khác. Nhưng khi đau suy thoái xương sống ở cổ, tôi uống thuốc, dù có kèm thuốc ngừa đau bao tử, tôi vẫn bị đau bao tử và phải trị bịnh bao tử một tháng mới hết. Tôi võ đoán rằng cái đau bao tử trước với tác dụng của thuốc xương khớp… hiện nay, làm cho tôi bị viêm bao tử. Sự hiểu lầm tai hại đã làm cho tôi bị bất tỉnh. Nếu tôi chết, bác sỹ Trưởng khoa là người gây ra cái chết của tôi.

Tôi thiển nghĩ bác sỹ Trưởng khoa không nên can thiệp vô việc điều trị của bác sỹ khi không xin ý kiến. Đừng tiết kiệm thuốc cho bảo hiểm y tế mà hại bịnh nhơn. Có khi lợi bất cập hại đấy. Khi té vì bất tỉnh, tôi nằm viện, có lẽ bảo hiểm y tế chi nhiều hơn cả trăm hay ngàn lần liều thuốc ngừa bịnh bao tử. Xưa trị lao phổi vì tái phát lần hai, vì phản ứng thuốc phải trị đến 15 tháng. Hết bịnh nhưng bác sỹ chịu phí thêm 3 tháng thuốc để an toàn cho bịnh nhơn nghĩa là tôi trị mất 18 tháng.

Khánh Hội - Quận 4 ngày 17-6-2019

NHỰT THANH

10 ĐIỀU SUY NGẪM

1. Cầu nguyện không phải là “bánh xe dự phòng” để lấy ra khi gặp khó khăn, nhưng là “tay lái” để lái đi đúng đường suốt cuộc tạm hành trên đất nầy.

2. Tại sao xe hơi có KIẾNG TRƯỚC lớn hơn nhiều so với KIẾNG CHIẾU HẬU? Vì QUÁ KHỨ của chúng ta không quan trọng so với TƯƠNG LAI. Vậy, hãy nhìn thẳng phía trước và đi tới.

3. Tình bạn như một QUYỂN SÁCH. Chỉ cần vài phút để đốt đi, nhưng cần vài năm để viết.

4. Tất cả những điều mình có trong đời sống nầy đều tạm bợ. Nếu được hạnh thông, hãy vui hưởng, vì nó sẽ chóng qua. Nếu không thuận lợi, cũng đừng lo lắng, vì nó cũng sẽ không kéo dài.

5. Bạn cũ là Vàng! Bạn mới là Kim Cương! Nếu ta có Kim Cương, đừng quên Vàng! Vì muốn giữ được Kim Cương, ta luôn cần Vàng để bọc Kim Cương!

6. Thường khi ta mất hy vọng và nghĩ đây là đoạn cuối đường, THƯỢNG ĐẾ ở trên cao cười và nói: “Hãy thư giãn, con yêu của ta, đó chỉ là khúc quanh, chứ không phải là đường cùng”.

7. Khi Thượng Đế giải quyết những vấn đề của ta, ta đặt niềm tin nơi Ngài. Khi Thượng Đế không giải quyết những vấn đề của ta, Ngài đặt niềm tin vào khả năng của ta.

8. Một người mù hỏi thánh Anthony: “Có thể còn điều nào khổ hơn là bị mù không? Ông thánh trả lời: “Có, lúc ngươi mất định hướng!”

9. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, Thượng Đế lắng nghe và ban phước cho người đó, và đôi khi chúng ta bình an, hạnh phúc, hãy nhớ rằng một người nào đó đã cầu nguyện cho ta.

10. Sự LO LẮNG không dẹp bỏ được sự KHÓ KHĂN ngày mai. Nhưng nó lấy đi sự BÌNH AN hiện tại.

Trà Mi - Lệ Ngọc st.


Truyện giả tưởng

GIẤC MƠ CỎ

Tiếng gõ cửa, không phải một tiếng mà nhiều tiếng, lúc đầu hơi rụt rè sau nhanh dần rõ dần, như gấp gáp chuyện gì. Mở choàng mắt phóng ra hé cửa, trong bóng tối nhập nhoạng lô xô những thân hình mảnh dẻ cao thấp, dụi dụi mắt, không nhận được ra “nhóm đối tượng manh động” này thuộc thể loại nào.

- Tụi con đến kêu oan với Người đây.

- Oan. Oan chuyện gì? Mà các con là ai?

- Người nhìn kỹ đi.

Định thần nhìn kỹ từng thân hình một, lờ mờ những chiếc lá, những khúc thân non yếu, quen quen, ừ khá là quen quen, nhận ra rồi, những loài cỏ mà thường ngày vẫn tiếp xúc, cỏ leo cỏ bò cỏ đứng cỏ cao cỏ thấp cỏ gai…

- Ta nhận ra rồi, các con kêu oan chuyện gì?

- Tại sao Người không cho chúng con được sống? Người luôn loại bỏ chúng con bằng mọi cách, chúng con cũng có quyền được sống mà.

Trợn tròn mắt “A, cái thể loại này mà cũng biết kêu ca á?” Nhưng cứ thử xem đã.

- À ta hiểu rồi. Thế này nhé. Ta biết các con cũng có quyền được sống, nhưng chỉ vì các con không mọc đúng chỗ.

- Khi chúng con là những hạt mầm bị cuốn trong những cơn gió, gió thả chúng con xuống chỗ nào thì chúng con sinh sôi ở đó, làm sao chúng con biết đâu là đúng chỗ.

- Đấy, vấn đề là ở chỗ đấy. Các con được tùy nhiên thả xuống, nhưng các con lại không được chọn lựa, không được yêu chuộng, thì các con phải bị loại bỏ thôi.

- Con thấy loại cỏ hoa vàng mà người chăm sóc tưới tắm cho họ hàng nhà chúng tràn lan thoải mái cùng có hơn gì con đâu. Con cũng có hoa vàng cùng bò lan như chúng mà.

- Đúng như thế. Nhưng có hoa vàng ấy là ta cần chúng ta thích chúng thì ta phải ưu tiên đất sống cho chúng.

Trên những chiếc lá xuất hiện những đốm nhỏ, dần rõ ra như những con mắt, những con mắt biểu lộ nhiều cảm trạng, như uất ức, như đau đáu, như khát vọng, như trách oán…

- Vậy ra, khi không được lựa chọn, không được yêu chuộng không được cần đến không được yêu thích thì không được chăm sóc, bị loại bỏ một cách không thương tiếc, thậm chí thân xác chúng con lại trở thành một thứ chất sống nuôi kẻ khác. Sao Người lại có thể bất công như vậy chứ?

- Ta biết các con đau uất vì quá bất công và vô lý, nhưng các con ơi, dù rất cay đắng rất bất nhẫn, nhưng ta không có cách nào khác, vì đó là sự thật. Thôi thì các con hãy bằng lòng với một chút hữu ích để lại cho đời đi vậy.

Những con mắt bỗng nhiên nhìn thẳng về phía trước, những thân cây mỏng mảnh cố vươn cao, tích tắc, chúng xếp thành hàng toát lên một thần thái dũng cảm, và rồi như những chiến binh tuẫn tiết, chúng thét lên một tiếng và biến mất.

Giật mình, mở mắt. Màn trời đang hé những tia sáng đầu ngày. Giấc mơ hiện rõ từng chi tiết. Ngoài cửa sổ những chiếc lá xanh đung đưa trong gió, những nụ hoa mơn mởn tung sắc. Và kia… những ngọn cỏ…

ĐÀM LAN

NƠI BẮT ĐẦU MỘT TÌNH YÊU

“Ăn như xáng múc, làm như lục bình trôi!” Câu bà mắng đeo theo tôi bén gót, xuống tận chiếc cầu ván bắc chông chênh, chồm hổm ra mặt sông. Nó làm tôi ấm a ấm ức làm sao ấy! Muốn khóc một chặp cho hả hơi nhưng chẳng hiểu sao tôi tỉnh queo, mắt ráo hoảnh.

Tôi hậm hực đặt mạnh thau quần áo lên mặt cầu. Mấy mảnh gỗ cũ xì sắp rệu rã đến nơi như oằn xuống, rên lên cót két… Cái áo trên cùng văng ra. Bịch xà bông tuột theo, trút một bụm bột giặt xuống cầu, lọt qua khe hở, rắc lên mặt nước. Hoảng hồn, tôi chụp vội túi xà bông. May là kịp lúc. Không thì ngoại lại ca cẩm: “Con gái con đứa gì mà tệ còn hơn vợ thằng Đậu!” Có lần, tôi bạo gan hỏi bà:

- Vợ thằng Đậu là ai vậy ngọai?

Thật rủi! Gặp lúc ngoại đang bực mình, chẳng những không thèm cho tôi biết gốc tích người đàn bà ấy, bà còn gán ghép:

- Là mầy chớ ai!

Không nản, tôi hỏi ráng:

- Thằng Đậu là ai vậy ngoại?

- Hừ, nó là chồng mầy chứ ai.

Huề vốn! Thằng Đậu và vợ nó trở thành nỗi ấm ức trong lòng tôi suốt ngày hôm đó.

Tôi lấy từng cái áo, quần nhúng nước vò sơ sịa cho ra bớt chất bẩn rồi đặt lên mặt cầu. Dùng cái thau múc ít nước, trút mấy bụm xà bông vào, quậy đều. Màu nước đục ngầu chuyển sang nhờ nhờ đục. Nhận cái áo dài trắng vào đó, nó biến thành màu cháo lòng. Sốt ruột! Đồ giặt xong, cái áo tệ hơn hồi chưa giặt. Phải chi tôi nghe lời ngoại, gánh nước sông đổ vào lu, lóng phèn, cho cặn lắng xuống, nước trong veo hãy giặt thì hay biết mấy. Đằng này, tôi… làm biếng. Nhỏ Thủy bạn tôi thường cằn nhằn:

- Mầy làm ơn siêng siêng một chút cho tao nhờ coi! Cái áo vàng khè mà cũng dám mặc đi học.

Đứng giữa đám bạn học, bao giờ tôi cũng nổi bật nhờ… màu áo không trắng. Ngoài ra, mái tóc dài ngang lưng của các bạn tôi được bỏ xõa hoặc kẹp nơ rực rỡ. Còn tôi để cho đỡ vướng, tôi vấn tóc thành một củ hành to bằng nắm đấm, thả toòng teng sau ót. Khi thì tôi cuộn tóc thành hai cục to bằng củ tỏi thòng thòng xuống hai bên mang tai. Lũ bạn nhận xét, nếu tôi học kém thì chắc cô không tha cho cái moden quái đản ấy đâu. Cũng may, mỗi khi cô cho làm “toán chạy”, tôi luôn chạy lên trước tiên và bao giờ cũng được điểm cao. Tôi đ ược cô khen:

- Lục Bình khá lắm! Em vừa sáng dạ vừa lẹ làng. Đáng cho các bạn tuyên dương.

Một tràng pháo tay lẹt đẹt nổi lên. Vì có đứa dang hai tay mà vỗ nhẹ hều. Nhỏ Thủy còn cắc cớ vỗ bằng hai ngón tay trỏ. Nó nhe hàm răng trắng ởn ra cười:

- Lầm to rồi cô ơi, nó trôi lình bình thì có.

Nhỏ Kim Sa thúc cùi chỏ vào hông tôi, thầm thì:

- Mầy là đứa hai mặt. “Sáng” chuyện học, “tối” chuyện nhà!

Từ bàn trên, thằng Phong ngoái cổ xuống khen như ngạo:

- Ê Bình, nổi lều bều chứ bộ!

Nhỏ Thủy trợn mắt:

- Tụi mầy quên nó là Lục Bình hả? Hổng nổi sao được.

Vừa lúc đó, thầy Hiệu trưởng tới lớp gọi cô chủ nhiệm ra ngoài. Kim Sa liền rút chân trái đặt lên băng ghế, tựa cánh tay trái trên đầu gối, bàn tay xòe ra chống cằm:

- Nói gì thì nói chứ nó là kết quả của một mối tình… trên mặt nước chứ bộ!

Mặc tôi dứ dứ nắm đấm, Kim Sa vẫn bô bô:

- Hồi chiến tranh, ba nó là một anh nuôi. Ông có tài chế biến thức ăn không thua gì “Vua đầu bếp Hồng Kông”. Một lần, ông ấy bơi ra giữa dòng sông định kéo cụm lục bình vào bờ, ngắt hoa về xào với tép thì bắt gặp một nàng đẹp… cỡ tao.

Cả bọn phì cười. Thủy chơm chớp mắt hỏi:

- Rồi sao nữa?

- Chàng thét lên một tiếng… trời! Trống ngực đập thình thịch. May là nàng sáng dạ, lẹ làng bụm miệng chàng. Chứ không thì địch phát hiện, chĩa súng, bùm bùm mấy phát là không bao giờ có mặt nhỏ Lục Bình trên cõi đời nầy.

Tôi hậm hực:

- Mầy nói hết chưa con quỷ?

- Chưa!

Thủy đạp vào chân tôi:

- Cô trở vô kìa, hai bà.

Đúng lúc đó, tiếng chuông báo giờ ra chơi vang lên. Kim Sa bật cười:

- Số tao là số đỏ mà.

Lũ bạn cũng chưa chịu để tôi yên. Chúng vừa đứng dậy chào cô vừa quay mặt nhìn Kim Sa:

- Rồi sao nữa, Kim Sa?

- Tụi bây đãi tao một chầu đá me đi rồi tao kể tiếp cho nghe.

- Mầy bóc lột vừa phải thôi chứ!

- Tụi bây phải nhớ rằng khi mình chịu đầu tư thì phải có kết quả tốt chứ. Tao đã mất một cữ chè Huế, nhỏ Bình mới… xì ra nguồn cội chứ bộ.

Phong khoát tay:

- Thôi kệ, tui bao bà đó, kể tiếp đi!

Sa tủm tỉm, nó đảo mắt nhìn vòm trời trong veo ngoài khung cửa lớp.

- Tụi bây biết không? Nàng vốn là một cô văn công ca hay, múa dẻo. Định mệnh khiến xui nàng thương một người bạn giao liên bị ốm nên tình nguyện vượt sông, mang thư qua bên kia bờ, cũng chính lần đó, nàng gặp duyên kỳ ngộ. Để tránh những cặp mắt cú vọ của bọn địch từ cái “chuồng cu” gần đó, nàng dùng lục bình ngụy trang để bơi ngang sông. Ai dè, chàng thấy hoa trôi, muốn hái nên nhảy tòm xuống nước, bơi ra thì… Tao mệt quá, tụi bây mua nước cho tao uống đi rối tao kể tiếp.

Phong vênh mặt:

- Thôi, bà khỏi kể nữa, tui biết rồi.

- Sao, biết sao?

- Thì chàng và nàng cùng bơi vào bờ. Nàng tặng chàng cụm lục bình để chàng muốn xào nấu thì mặc nấu xào. Trước nghĩa cử cao đẹp của nàng, trái tim chàng anh nuôi lắc lư, lắc lư, khốn khó. Chàng liền ngắt một đóa lục bình cài lên tóc nàng rồi trịnh trọng tuyên bố: “I LOVE YOU!”.

Cả bọn cười bò. Tôi phục lăn tài bóc phét của mấy đứa bạn. Câu chuyện tình trong thời chiến tranh đầy gian nan, khốn khó vậy mà bọn nó tưởng tượng đẹp như tranh. Thật ra, ba mẹ tôi gặp nhau như thế, nhưng họ lặng lẽ nhìn nhau không nói. Sau đó, mạnh ai nấy lo làm tròn nhiệm vụ, chia tay nhau đến khi chiến tranh kết thúc. Ba mẹ tôi gặp lại cũng tình cờ… trong bệnh viện. Mẹ ốm, phải nằm viện. Ba đi thăm bạn mà đi lầm phòng, gặp mẹ. Hai người nhìn nhau ngỡ ngàng và… mừng quýnh. Tôi ra đời đất nước đã thanh bình. Những dòng sông êm đềm chảy qua làng mạc, không chút cạm bẫy. Không đạn bom chực phủ xuống đầu. Trước mắt tôi là những con đường thẳng tắp. Tôi chỉ việc tiến lên. Dù vậy, ngoại không sao hiểu được tranh đấu với bản thân cũng không dễ gì đâu. Nhất là tính lười biếng của tôi.

Giặt giũ xong, tôi chần chừ chưa muốn vào nhà. Tôi thích ngắm dòng sông lờ đờ chảy giữa đôi hàng dừa nghiêng ven bờ. Những cụm lục bình bất chợt bập bềnh phía xa. Màu tím dịu dàng trôi trong chiều thu lặng lẽ. Chẳng biết con sông nầy xuôi về đâu? Nhánh sông có rẽ vào nơi ba mẹ gặp nhau thuở đó?

Nguyễn Thị Mây


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.9.2019… .. Vũ Thư Hữu . 01

Vài chi tiết về một quý thư vừa đúng 120 năm tuổi đời ........ Vũ Anh Tuấn . 04

Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 2 - tt) ....... Lm. Giuse Ng.H.Triết . 06

Môn Thiền Quán & Đạo Phật mà tôi đã được dạy ..... Tâm Nguyện . 11

Hai đại thi hào của hai dân tộc… ....... Thúy Toàn .. 2 3

Con chim Hán học cuối mùa ở ngôi trường thành phố ............. Nguyễn Văn Sâm .. 3 4

Nước Mỹ vĩnh biệt Stan Lee ..... Phạm Vũ . 40

“Chữ Việt” thời Sài Gòn xưa dùng dấu hỏi-ngã . Hà Mạnh Đoàn .. 46

Bốn điều cần biết khi ngủ ..... Hoàng Kim Thư st .. 52

Mộng mơ (thơ) .......... Đàm Lan . 5 7

Diễm mộng - Kiếp sau (thơ) ........... Ngàn Phương .. 5 8

Vườn thơ (thơ) ............ Huỳnh Thiên Kim Bội .. 5 9

Phụ nữ Việt Nam (thơ) ............ Thanh Vĩnh .. 59

Nghe mưa - Lá thắm về đâu (thơ) ........... Hoài Ly .. 60

Tháng Tám mộng hờ (thơ) ........ Phạm Thị Minh-Hưng .. 6 1

Nỗi lòng (thơ) ......... Vũ Thùy Hương . 6 2

Nước lớn ròng (thơ) ............ Thanh Châu .. 6 3

Thuyền câu - Liễu gió nghiêng (thơ) ..... Lang Nguyên .. 6 4

Mất điện - Xin đứng vội trách nhau (thơ) Dương Tiến Cần .. 6 5

Sầu lẻ bóng (thơ) ......... Thanh Phong .. 6 6

Chuyện đời - Tự bạch (thơ) ............ Quang Bỉnh .. 6 7

Mưa Sài Gòn (thơ) ............ Lam Trần .. 6 8

Tiếng vọng chuông chùa (thơ) ...... Phước Hải .. 6 9

Tình hận sông Vàm (thơ) ......... Nguyên Lê .. 70

Chữ Tâm - Tiếng vui sầu (thơ) ....... Lê Nguyên .. 7 2

Giáo viên cắm bản (thơ) ....... Lưu Hương Quế . 7 3

Bốn mùa (thơ) ...... Trần Nhuận Minh .. 7 5

The four seasons (thơ) ......... Vũ Anh Tuấn dịch .. 76

Sống thọ không phải chỉ do ăn uống hay vận động .... Đào Minh Diệu Xuân st . .. 77

Lúc còn thơ ngây (tt) ........ Hoài Ly .. 82

Nẻo cũ ...................... Lam Trần .. 89

8 giai đoạn của chồng em ........... Đỗ Thiên Thư st. .. 9 5

10 điều tuyệt vời của cuộc sống, mất đi rồi khó lấy lại được ....... Kim Sơn st. .. 98

Có tình thương có tất cả ......... Hoàng Chúc st. 102

Hạnh phúc .......... Phùng Chí Tâm st. 104

Xe dê .................... Bùi Đẹp st. 105

Thay đổi lối sống & chế độ ăn uống…

Liệu pháp 4T ...... Lê Ái Liên st. 108

Khám bịnh .......... Nhựt Thanh 118

10 điều suy nghĩ ........ Lệ Ngọc st. 123

Giấc mơ cỏ (truyện giả tưởng) ......... Đàm Lan 125

Nơi bắt đầu một tình yêu ........... Nguyễn Thị Mây 127


|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế